Tất cả đều thiếu thốn. Phải mò đi ký sổ đại đội rồi đến tháng xem như hết tiền. Họ nói chẳng ngoa "Tiền Lính là Tính Liền"
hình ảnh sưu tầm: Quân Bắc Việt đang tiến chiêm Chốt Động Ông Do (Qt) 1972 lúc này người viết chưa ra đơn vị |
Mời anh mời chị, mùa xuân lên đây thăm tôi
Nơi đây xa xôi khuất nẻo thưa người
Núi rừng mịt mù sương...
Mời em một lần rời xa
Nơi đang yên vui
Lên đây thăm lính ở trên rừng
Để cùng ngọt bùi sớt chia...
Nơi đây xa xôi khuất nẻo thưa người
Núi rừng mịt mù sương...
Mời em một lần rời xa
Nơi đang yên vui
Lên đây thăm lính ở trên rừng
Để cùng ngọt bùi sớt chia...
(Thư Xuân Trên Rừng Cao/ Trịnh Lâm Ngân)
***
Mười ngày mới có một chuyến xe GMC tiếp tế phải tới đỉnh Ông Do, nơi BCH Tiểu Đoàn 105 đóng, nhận hàng do chiếc xe không thể bò tới chốt của từng đại đội được.
Tuy nhiên hàng "ký sổ" thì chúng tôi có thể từ chốt trung đội, men theo vài triền đồi tranh hướng tới chốt của đại đội. Chúng tôi chọn cách đi tắt như thế để an toàn cho mình. Chốt đại đội tức là nơi Ban Chỉ Huy đại đội đóng. Chúng tôi tới, chỉ vài người nên Đại Úy Lê Kim Chung chẳng phàn nàn do còn yên không có tiếng súng. Tới đại đội, không khí sao vui hơn; chuyện dễ hiểu do đây là nơi chỉ huy trực tiếp của tôi.
Chúng tôi sẽ mua thiếu nghĩa là "ký sổ" những thứ chúng tôi cần, tháng tới lương từ hậu cứ mang lên sẽ thanh toán. Nào kẹo đậu phụng nào sữa Ông Thọ thêm bịch bột gạo lứt Bích Chi, thuốc hút capstan, ruby queen (ruby đỏ), ruby quân tiếp vụ, tệ lắm là bastos. Tôi chẳng quên chai dầu nhị thiên đường gió núi lạnh lẽo... hầm bà lằng đủ thứ. Một lần đi một lần nguy hiểm, vượt rừng tranh tới được chốt này.
***
Trời sắp đón xuân 1975 hay cái tết đầu tiên tôi đón xuân trên miệt núi. Trên cao nhìn về đồng bằng là cả một mãng mù sương. Những ngày quang đãng, hướng mắt về Diên Sanh tôi thấy rõ những viền cát trắng. Những lúc trời thật trong tôi còn nhìn thấy mép đại dương xanh ngọc bích.
Ban ngày chúng tôi có thú vui là đánh bài xẹp. Bài xẹp gần giống bài tứ sắc. Đó là cái thú tiêu khiển cho đời lính đóng chốt ở đây. Radio nghe riết cũng hết pin mà hết pin thì khó lòng mua được ngoại trừ dùng lại những cục pin cũ của máy PRC 25 tức là máy truyền tin của trung đội tôi.
Ban ngày chúng tôi có thú vui là đánh bài xẹp. Bài xẹp gần giống bài tứ sắc. Đó là cái thú tiêu khiển cho đời lính đóng chốt ở đây. Radio nghe riết cũng hết pin mà hết pin thì khó lòng mua được ngoại trừ dùng lại những cục pin cũ của máy PRC 25 tức là máy truyền tin của trung đội tôi.
BẠN VỚI BAO THUỐC CAPSTAN
Vào những năm này sao lính phần nhiều ghiền thuốc hút Capstan đến thế. Hút xong bao thuốc đọc ngược rồi lại đọc xuôi, tất cả dân hút đều thuộc và đồng ý những chữ đầu của bao CAPSTAN là:
-Cho Anh Phát Súng Tim Anh Nát? ...CAPSTAN
ĐỌC NGƯỢC LẠI LÀ
-Nhưng Anh Tin Số Phận Anh Còn! ...NATSPAC
Dù có nhiều câu khác nhưng hai câu trên là hai câu phổ thông nhất mà người lính bộ binh nào vào cái thời ghiền Capstan đều chịu. Điếu thuốc khói vàng cả hai đầu ngón tay, nhưng không có không được? Capstan là lúc còn có tiền, nếu túng quá thì Basto xanh hay tệ hơn nữa là Basto đỏ cũng còn để phì phà cho đỡ cơn ghiền.
Dù có nhiều câu khác nhưng hai câu trên là hai câu phổ thông nhất mà người lính bộ binh nào vào cái thời ghiền Capstan đều chịu. Điếu thuốc khói vàng cả hai đầu ngón tay, nhưng không có không được? Capstan là lúc còn có tiền, nếu túng quá thì Basto xanh hay tệ hơn nữa là Basto đỏ cũng còn để phì phà cho đỡ cơn ghiền.
Nước uống thì chúng tôi phải vác ống đạn bò xuống chân núi để múc nước khe. Đoạn đường nguy hiểm và hồi hộp làm sao? Không phải chúng tôi sợ cọp hay ngại beo mà là sợ bị đối phương phục kích? Nhưng không có nước thì xem như ngồi trên chóp núi mà chịu 'chết khát' thôi. Nhược điểm của đóng quân trên đỉnh cao là thế. Chúng tôi biết làm sao hơn cái chiến thuật vào thời đó có cái tên là “CHỐT và KIỀNG” một danh từ trong quân trường những người sĩ quan sau này đều được học.
Đủ thứ nghi ngại cho căn bệnh sốt tại miền núi Động Ông Do vào thời gian đó. Theo tôi nghĩ, có thể do thuốc khai quang, có thể do muỗi? Do nguyên nhân nào không quan trọng. Chuyện đáng lo là quân số quá thiếu, tiếp vận thì eo hẹp làm sao.
Chuyện lính là vậy, dù sao chăng nữa còn “cái mạng” để hàng ngày được ngắm trời mây sông núi là may mắn lắm rồi.
Đủ thứ nghi ngại cho căn bệnh sốt tại miền núi Động Ông Do vào thời gian đó. Theo tôi nghĩ, có thể do thuốc khai quang, có thể do muỗi? Do nguyên nhân nào không quan trọng. Chuyện đáng lo là quân số quá thiếu, tiếp vận thì eo hẹp làm sao.
Chuyện lính là vậy, dù sao chăng nữa còn “cái mạng” để hàng ngày được ngắm trời mây sông núi là may mắn lắm rồi.
TIỂU KHU QT ĐÓNG TẠI CỒN CÁT HẢI LĂNG 1973
LẶNG NGẮM QUÊ HƯƠNG
Lúc bình an, thư thả tôi đứng một mình trên đỉnh cao, im lặng ngắm phía dưới chân núi. Có một con sông nhỏ. Đó là một khám phá lý thú cho riêng tôi khi dò trong bản đồ vùng tôi đóng quân tôi tìm ra tên của con sông đó- Sông Nhùng. Ngày xưa tôi quen miệng gọi là "Nhồng'. Cầu Nhồng là tên tôi không bao giờ quên. Ngày còn nhỏ- những năm lớp nhì- lớp nhất- tôi hay vào Diên Sanh. Những năm đó, xe hàng từ Quảng Trị vô phải chạy qua Cầu Nhồng. Con đường Quốc Lộ 1 vào Diên Sanh, qua Hải Thượng tức là con đường cũ. Xe qua Cầu Nhồng rồi mới đến Cồn Dê trước khi đến Diên Sanh tức là Xã Hải Thọ.
Huyển thoại về Cầu Nhồng, thời nhỏ tôi chưa quên. Người ta kể rằng: thời Pháp qua Cầu Nhồng hay có ma. Có khi ma nó xui cho tài xế thấy cả "hai cầu Nhồng" trước mắt và lái tòm xuống sông? Đó là chuyện thời xưa khi còn Pháp, tôi chưa ra đời. Rồi thập niên 1964-65 khi ba tôi làm tại Chi CA Hải Lăng người hay lái xe vào Cầu Nhồng, đi bộ lên một đoạn ném lựu đạn bắt cá. Có hôm bắt được con cá tràu khoanh lại to gần bằng cái bánh xe hơi?
Hôm nay Cầu Nhồng chắc đã vào quên lãng khi Quốc Lộ 1 đổi hướng từ Ngã Ba Long Hưng qua Cầu Dài vào tuốt Mỹ Chánh. Khi viết những dòng này, tôi không biết chiếc cầu đó còn không? Có điều tôi chắc chắn Diên Sanh trở thành "Thị Trấn Đìu Hìu". do Quốc Lộ không còn đi qua nó nữa.
Tôi thú vị với hai chữ Sông Nhùng để ngày ngày ngắm nó uốn éo lượn lờ dưới chân núi. Tiếng là sông nhưng chỉ là con suối dài, nước chảy còn mạnh qua nhiều nơi tung nước trắng xoá. Sông và thảm rừng dưới xa là cả một bức tranh thuỷ mạc.
Đời lính và quê hương đôi lúc tình cảm phát sinh là những lúc lặng ngắm non sông như thế. Trước khi đổi quân lên núi, tôi từng đóng quân mạn biển. Khi tai nghe sóng trùng dương và mắt ngắm biển trời bao la bát ngát, tôi mợt chợt nghiệm ra tình yêu nước dâng trào trong cơn gió lộng. Lên đây, vùng cao: một lần nữa khi đứng trên đỉnh cao ngắm xuống một con sông đang lượn lờ uốn khúc, tôi mới nhận ra quê hương sao đẹp quá! HỒN THIÊNG SÔNG NÚI ngàn đời mãi xanh.
Tôi thú vị với hai chữ Sông Nhùng để ngày ngày ngắm nó uốn éo lượn lờ dưới chân núi. Tiếng là sông nhưng chỉ là con suối dài, nước chảy còn mạnh qua nhiều nơi tung nước trắng xoá. Sông và thảm rừng dưới xa là cả một bức tranh thuỷ mạc.
Đời lính và quê hương đôi lúc tình cảm phát sinh là những lúc lặng ngắm non sông như thế. Trước khi đổi quân lên núi, tôi từng đóng quân mạn biển. Khi tai nghe sóng trùng dương và mắt ngắm biển trời bao la bát ngát, tôi mợt chợt nghiệm ra tình yêu nước dâng trào trong cơn gió lộng. Lên đây, vùng cao: một lần nữa khi đứng trên đỉnh cao ngắm xuống một con sông đang lượn lờ uốn khúc, tôi mới nhận ra quê hương sao đẹp quá! HỒN THIÊNG SÔNG NÚI ngàn đời mãi xanh.
..So với tuyến Barbara vùng núi Mỹ Chánh và Phong Điền ngó lên tuyến Động Ông Đô là tuyến núi ngoài cùng. Chốt trung đội 2 của tôi lại là ngoài cùng của tiểu đoàn 105 do đó xem như tôi là 'đứa ngoài cùng biên giới'? Cái mõm chốt của chúng tôi ngó lên Động Tiên cao chớm chở. Động Tiên thuộc về "bên kia" nên rậm rạp hoàn toàn. Họ không bao giờ biết "đóng chốt" là gì ngoài cái việc ẩn nấp và bụi rậm làm nhà hay khe suối, vực sâu làm đường di chuyển...
Từ chốt này tôi lại nhìn về được hướng Trấm có khúc sông hình chữ U của dòng Thạch Hãn. Con sông uốn mình ở đây và đi tiếp về Cầu Ga. Từ độ cao này nếu cố gắng, tôi còn nhìn thấy hình dáng cái cầu Ga đen sì gãy đổ xuống sông từ năm 1972.
Ở vị trí mới này tôi chẳng còn nhìn về được hướng Hải Lăng nữa. Tôi chẳng còn nhìn xuống được khởi đầu của Sông Nhùng đang uốn lượn dưới kia.
Nơi chốt mới đối đầu với Động Tiên tôi chỉ thấy được mạn An Đôn Tích Tường và cái cầu đen sì gãy đổ xuống dòng sông. Con sông mang tên Thạch Hãn sẽ âm thầm chảy qua chiếc cầu gục ngã đó, rồi men theo những đống gạch vụn cùng lau lách đìu hiu. Một thành phố mà hơn ba năm trước còn lao xao tiếng guốc tới trường. Những toán học trò còn vô tư cắp vở đi học, trong đầu chỉ là những hoài bão ước mơ ngây thơ trong trắng...
Còn lắm điều tưởng nhớ về đống tro tàn của một thành phố thân yêu mà ba năm trước nó còn nguyên vẹn. Rồi tất cả đều phải lìa xa? Còn lại gì? họa chăng là tiếng gió hú đêm trường như thanh âm của những oan hồn kêu khóc. Rồi từ một đỉnh cao quê hương ngày tôi trở lại, hướng về đống gạch đá đổ nát đó, người lính càng nghĩ, càng ngắm, rồi trầm ngâm ngổn ngang bao cảm xúc trong đầu? Tất cả chỉ là vị đắng, đến bởi bao nỗi tiếc nuối, oán hận khôn nguôi và cũng là lạnh giá như nòng súng bên người.
Có thể lớp con cháu sau này sẽ ngạc nhiên khi tôi chỉ nhắc chuyện chiếc cầu đã gãy cùng một thành phố lịch sử từng là một đống hoang tàn từ độ 1972. Một ngày hè, có những người dân khốn khổ phải lìa xa quê hương bản quán trong nước mắt bi thương, khổ hận của một đoạn đường tràn đầy máu lệ. Nếu mai kia nếu có ai thương về Quảng Trị xin hãy cùng nhau thắp lên một nén hương lòng.
Quảng Trị ơi ngày đó xa rồi ./.
Đinh Hoa Lư
edition 16/4/2022
San Jose USA
No comments:
Post a Comment