Sunday, August 13, 2023

TỔNG HỢP SỐ 8 VIẾT VỀ QUẢNG TRỊ XA XƯA

MỤC LỤC 


1- NỖI BUỒN GIÁP HẠT 

2- CHÁO BỘT DIÊN SANH 

3- MỸ THỦY MIỀN BIỂN VẮNG 

4- NGÀY ĐẦU TIÊN ĐI HỌC

5- NHỚ VỀ LÀNG NGOẠI NẠI CỬU (BÊN CỘI MAI GIÀ)


===================== 

NỖI BUỒN GIÁP  HẠT


                 đồng ruộng xã Triệu Tài (năm 1974 tác giả có đóng quân tại Tham Triều -đi ngang đây còn xác chiếc trực thăng cobra của Mỹ rơi trên cánh đồng này, sau này chắc xác nó đã bị cưa bán nhôm nhựa)


    Thời gian dần qua, các thế hệ  sau này chắc sẽ dần dà  quên đi hai chữ GIÁP HỘT.

LỤT LẠI VỀ, chuyện "đày đọa của ôn trời" chẳng hề thay đổi. Nước tràn vào làng, chảy băng băng ngoài ruộng. Lụt mấp mé vào đến cái trọt nước trước hiên. Mấy cặp mắt đau đáu  nhòm chừng, phấp phỏng lo âu:  

 Lạy trời nước rút!  

 Cái sập lúa vẫn còn an toàn trước mắt mạ. Trai tráng trong nhà chẳng còn việc chi, đang đi kiếm vài mớ cá nước lụt. nước lên phủ ngập cánh đồng, đôi bờ tre xóm dưới lờ mò theo làn mưa. Cái tơi không đủ che thân, người lo đi cất rớ, kẻ khác đi nơm. Mớ cá kiếm về, nặng mùi bùn đất làm ai cũng vui quên cơn gió lạnh.

Phía nhà vợ, mạ gia tôi kể lại cho chúng tôi nghe chuyện dưới quê ngày xưa vào cơn giáp hột. Môn khoai chi cũng cạn sạch, nhưng thảm thay lúa ngoài đồng lại chưa chín. Có lúc túng quá người mình phải ra đồng truốt những hạt lúa chín trước ở phần chót bông về giã ra nấu ăn tạm.Những ngày giáp hột như thế, người dưới quê ngó quanh nương chẳng còn gì bỏ được vào om. 

 Thế mới biết tại sao người xưa (hay miền trung) năng để dành, hà tiện chắt chiu từng miếng ăn là thế. Dù được mùa, nhưng chẳng ai quay lưng "phụ phàng" với củ khoai, khúc sắn.



Hình ảnh mạ ngồi cắt từng mớ khoai măng, phơi khô phòng đói.  Những sợi khoai khô vuông dài, mạ mừng do phơi được nắng. Ngoài khoai khô, mạ còn cất vài thúng sắn lát, mong mỏng cong cong... Khoai sắn phơi khô, con nhà nông ai mà chẳng quý. Nhớ hình ảnh mạ lom khom cất đặt từng mớ khoai khô vào trong sập gỗ, mạ cất đặt như nâng niu thương mến vô cùng.

Mạ còn gắng chắt chiu, gom từng cọng rơm, mong răng ngọn lửa phập phồng trong gió ngoài nương vẫn nấu chín nổi nồi cơm hấp sắn. Mớ cá hôm nay, những con cá mụn mạ kho cho cả nhà, sao thơm tho ngon miệng lạ thuờng. Giêng Hai đến, "cắn ngón tay không chảy máu".  Bao thiếu thốn, bao tính toán lo toan.  Trai tráng vác cày ra ruộng thì lại phải lo ăn, mà ăn 'làm răng' thì đã có mạ lo. Mạ lo, là 'lo ăn cho đủ  đến khi GIÁP HộT.

Chỉ rứa thôi,  khi cái vòng lo toan không bị ôn trời làm cho trắc trở thì con nhà nông thở ra nhẹ nhỏm. Cũng là lúc cái "vòng đời" lam lủ tính đủ một năm tròn mong sức người vẫn còn dẻo dai để cấy cày làm ra hột gạo. Mong làm răng thoát cái cảnh nước tràn vô đồng mà chảy băng băng làm ngọn lúa không ngóc đầu lên được. Đó là lúc trời còn giúp cho con nhà nông lo toan đủ hai vụ cấy cày. Đầu mùa gieo mạ cấy lúa, cuối mùa gánh về nhà những gánh lúa được mùa nặng hột. Trời còn thương thì người làm ruộng chẳng màng chi tuổi đời chồng chất, tưởng sức mình như đeo mãi với ruộng lúa con trâu...


Chuyện ngày xưa, chuyện những ngày GIÁP HộT, mỗi lần "qua truông" anh nông phu bấm đốt tay tính thêm được một tuổi đời. Vòng trần thế già thêm mưởi hai tháng.  Bên mảnh đất thân yêu muôn thuở, bên mái tranh ấp ủ tình quê, cạnh bụi chuối bờ tre người nông dân vẫn mãi tấm lòng chung thủy đất-người. Ngày lại ngày qua bốn mùa xuân hạ thu đông 'cày sâu cuốc bẫm'. người làm ruộng chỉ một niềm mong đợi đơn sơ  "Ăn răng cho đủ tới khi GIÁP HộT !" Thế thôi, một đời dân dã, đơn thuần người miệt quê chẳng ai biết mong chi lâu dài hơn nữa./.

===================== 


NHỚ NỒI CHÁO BỘT DIÊN SANH  & ĐỒNG CU HOAN 

CHÀO BẠN ĐỌC 


Saturday, April 2, 2016



           NHỚ ĐỒNG CU HOAN NHỚ NỒI CHÁO BỘT


 Trong ký ức tôi vẫn nhớ mãi hai mùa hè 1964 và 1965 đó là thời gian tôi được nghỉ học và có dịp vào ở tại chi CA Hải Lăng do ba tôi làm việc trong này. 

Hai mùa hè kể trên là lúc tôi học xong lớp nhì  và lớp nhất cuối cấp tiểu Học. Tuy còn nhỏ nhưng  người viết không quên được hình ảnh cái chi CA đóng ở khúc cua gần ngã ba lên hướng núi (xã Hải Lâm, Hải Quế). Ngã ba này có một bệnh xá mới xây ngó qua là khuôn viên của Quận Hải Lăng. Thời gian này ông Đ/U Điềm làm QT.

 Chi CA tôi vừa nói trên, đó là một mái đình rộng lớn nào đó hay một căn nhà xây từ thời trước được tu sửa lại để làm việc chứ không phải một căn nhà xây theo kiểu mới. Ngày nào mà tôi chẳng vào phòng làm việc của ba tôi. Tôi nhớ nhất là tấm bản đồ to lớn đặt trong phòng. Tấm bản đồ có tên mấy chục xã. Hải Lăng có đến hai muơi mấy xã; xã nào cũng có chữ "HẢI" đằng trước...Hải Thọ, Hải Lâm, Hải Quế, Hải, Hải Thượng, Hải Chánh, Hải Văn... Hải, Hải nhiều lắm tôi không nhớ hết.
 Sợi dây điện thoại xuyên qua phòng sau nơi ba mạ tôi ở. Tôi nhớ cái máy điện thoại màu ô liu của nhà binh, mỗi lần gọi lên Quận ba tôi phải cầm cái nuốm đằng trước quay 'ro ro ' xong mới nói được. 

  Quận nằm trên chóp đồi chỉ cách Chi ba tôi vài hàng rào kẽm  gai. Năm này Đại Uý Điềm làm Quận Trưởng. Quận có cái lầu ở giữa.  Ngó xuống mạn phải là cái trũng đồi hoang vu chạy dài ra đến Cồn Dê trước khi gặp Cầu Nhồng. Tôi nhớ sông Nhùng có khi ba tôi đi ném cá lại đem về con cá tràu bông to đến nỗi khoanh tròn lại như cái lốp xe.


Tại sao tôi nhớ những lần vô Hải Lăng này là gần hè năm 1965?



Khi tôi đọc lại lịch sử Không Quân VNCH bay ra lần đầu tiên không tập Vĩnh Linh miền Bắc Vĩ Tuyến 17 vào tháng 2 tháng 3 năm 1965 tôi mới chắc chắn thời gian tôi vào thăm Chi CA Hải Lăng sát Quận là hè năm 1965. Tôi hay tập xe đạp theo cái ngã ba trước Chi đi lên hướng núi, nếu tôi không lầm là thôn Diên Trường thì phải?  Qua cái bệnh xá mới xây, tôi không dám đạp xe lên xa hơn. Trảng cát hoang vắng ngó lên phía núi, tự nhiên tôi hay sợ. Tôi hình dung lại những đoàn phi cơ cánh quạt Skyraider bay ra hướng bắc nhưng bay rất thấp là là gần sát với mặt đất.  Hàng chục chiếc A 1E Skyraider ầm ầm bay ra hướng thành phố QT. Đương nhiên sau này lớn lên tôi sẽ hiểu bay như vậy để tránh làn sóng radar của miền Bắc. Hàng chục chiếc phi cơ này cất cánh từ Đà Nẵng bay càng thấp thì càng giữ bí mật với radar cho đến Trung Lương tất cả mới bay vụt lên cao để thả bom miền Bắc .


Đó là chuyện chiến tranh trong quá khứ nhưng cũng nhờ đó tôi mới nhớ chắc chắn là năm 1965. Hình ảnh những chiếc phi cơ bay thấp đến nỗi thấy mũ phi công màu trắng...

 Theo QL 1 về chợ Diên Sanh ,hình như đây là 'đường phố' duy nhất nằm trong khu vực xã Hải Thọ.  Khúc đường 'phố thị' (tôi tự đặt) có nhà chủ xe ví dụ Thiện Thành có chiếc Renault chạy Huế QT, có Uỷ Ban Xã , có xóm phường ở san sát với nhau nên ấm áp và vui vẻ hơn.Tôi còn nhớ sát cái quán của mệ Thiện Thành có con đường kiệt vô xóm nhà O Hải. Nhà O Hải nấu cơm tháng cho chi CA Hải Lăng nên tôi có ghé thăm một hai lần nào đó. 

 Đến chợ Diên Sanh, con đường QL gặp ngày cái chi Thông tin, bẻ phải tiếp tục vô Huế và qua trái là vô chợ Diên Sanh về biển tức  hay là thôn Mỹ Thuỷ. Chợ Diên Sanh không lớn nhưng gần biển Mỹ Thủy nên có cá tươi. Nói đến Mỹ Thuỷ tôi có về biển này một lần trong đời cái thời mà Mỹ Thuỷ rất chi là hiu quạnh và có ăn một vài con mực khô phơi tại biển này. Quà biển mới phơi nên mực rất ngọt. 

Sau lưng chợ D Sanh  là đồng Cu Hoan. Mùa nước, cánh đồng mênh mông hết tầm mắt người nhìn. Bờ tre phía bên tê bờ, chỉ còn một lằn đen mờ nhạt. Ai làng Cu Hoan hay nói chung là 'dân Diên Sanh" đều không bao giờ quên hình ảnh cánh đồng này. Người Diên Sanh ở hai bên Quốc Lộ 1: bên trái là đồng Cu Hoan chạy tít vô đến Cua Hà Lộc trước khi vào Mỹ chánh. 

  cánh đồng Cu Hoan hôm nay vẫn không khác xưa

Nhớ về đồng Cu Hoan,  người viết không có ý ghi lại hình ảnh đồng lúa chín vàng vào mùa gặt, mà chỉ nhớ một hình ảnh một cánh đồng bao la loang loáng nước. Một thời xe đò QT- Huế phải qua Diên Sanh xong men theo đồng Cu Hoan. Mùa đông lạnh mãi mưa dầm, những chiếc đò nho nhỏ giữa đồng, những cái tơi của người làm cá cùng mấy con sếu  bơ vơ. 

Tôi nhớ về Diên Sanh là nhớ những con cá tràu , nguồn đặc sản cho nồi cháo bánh canh hay còn gọi là 'cháo bột' mà ít nơi nào phong phú hơn. Bột gạo để nhồi bột làm bánh canh thì chuyện thường, nhưng nguồn cá tràu vô tận từ cánh đồng Cu Hoan khi um lên với ném Quảng Trị để tạo thành những tô cháo bánh canh thơm ngát mũi , ăn mãi không biết no. 

Mà thật sự vậy, bột gạo nó không nặng bụng bằng bột lọc. Cháo bột Diên Sanh ta tha hồ thưởng thức.Vào Diên Sanh là người ta nhớ đến Cháo bánh canh (cháo bột, cháo vạc giường) cá tràu.Vào nam gọi cá tràu thành cá lóc. Những con cá tràu sinh sôi nảy nở giúp cho những thôn làng quanh đồng Cu Hoan vừa có miếng ăn vừa có nguồn lợi tức. Vào chợ Diên Sanh bên mớ cá biển từ Mỹ Thuỷ lên, không bao giờ thiếu những mớ cá tràu đen bóng, còn sống lúc nhúc.

Quán cháo bột bán trong nhà, người ta biết và tới ăn.  Người này đồn tới tai người khác. Không ai đề bảng hay đề tên quán như thời sau này.

LÒNG SẢ 

                              món "lòng sả" 
Sau này, tức là gần 1972 quanh Chợ có vài quán nhậu mọc lên, cung ứng nhu cầu cho lính. Diên Sanh có thêm món "lòng sả"(CÓ THỂ LÀ LÒNG THẢ) . 

"Tiếng lành đồn xa", nếu 'lòng sả' Diên Sanh không có tiếng ngon sao từ thành phố Quảng Trị người ta hay rủ nhau "vào Diên Sanh ăn lòng sả"? Từ thành phố, dân 'ghiền ăn' phải "rù" honda chỉ non 10 cây số, tức là men theo QL cũ hướng qua Cấu Nhồng (còn kêu là Cầu Nhùng), chẳng xa xôi gì. Nói vậy để xác định món "lòng sả" có từ trên thực đơn cho dân "nhậu" từ trước 1972. 

 Cho đến sau 1972 người dân chạy loạn về lại trên đồi cát hoang vu, một thời người viết không dám đạp xe đạp qua. Đó là con đường từ Quân Cũ Hải Lăng đi ngược lên xa lộ Đại Hàn hay đoạn gần Cầu Dài sau này .  Giai đoạn hồi cư, sau  1973 - thành phố QT "thứ Hai" đóng trên đồi cát trắng đó. Những dãy nhà hồi cư san sát nhau , trước mặt Tiểu Khu QT, trường học , bệnh xá ...

  Vấn nạn sinh sống 'bế tắc' khi ngoài đồng luơng "Quân Công" ra thì chẳng ai biết làm sao mấy trảng cát tiếp liền với nhau  ?Mỉa mai thay nơi đây gọi là "Khu Thị Tứ" của tỉnh QT hồi cư, hết  6 tháng trợ cấp "Khu thị Tứ' này khi ăn hết luơng thì còn thiếu cả tiền để mua than củi, nói gì đến gạo?

Chuyện này không liên quan gì đến cháo bột Diên Sanh cả, nên xin gác qua một bên

Tôi xin ngồi kể lại chuyện Hải Lăng hơn nửa thế kỷ, năm xửa năm xưa.  Một thời QL 1 cũ vẫn còn. Tôi mường tượng một con đường nhựa nhỏ bé, đôc đạo từ thành phố Qt , chiếc xe chạy rầm rập qua cái cầu Nhồng  ọp ẹp - rung rinh. Con đường vắng ngắt, xe âm thầm  chạy qua mấy thôn làng thưa thớt, hai ba trảng cát bạc màu.

Xe vào Diên Sanh. Nơi đây có món cháo bột nấu với cá tràu. Gạo và cá đều từ Đồng Cu Hoan làm người Diên Sanh đi đâu cũng thuơng nhớ đậm đà về nó.


HƠN 50 NĂM SAU NGÃ BA DIÊN SANH VẪN KHÔNG THAY ĐỔI 





Con đường QL 1  năm xưa đã thay đổi không vô hướng Diên Sanh nữa; đó là lý do khiến khuôn mặt Chợ Diên Sanh mấy mươi năm vẫn không thay đổi. Xe cộ ít lưu thông, con đường trở nên hiu hắt vắng vẻ thì làm sao mua bán giao thương sầm uất để thay đổi bộ mặt phố phường.

Con lộ 1 xa xưa vẫn mãi là một ngã ba đi về Mỹ Thủy đó là kỷ niệm không quên cho riêng tôi một thời tuổi nhỏ từng sống dưới mái nhà cũ kỹ làm Chi CA trên hướng quận cũ Hải Lăng. 

nhớ về hương hồn ba tôi, bác Hạc trưởng chi CS-CA, bác Trần phong Anh, , chú Huấn tài xế và nhiều chú bác khác tùng sự tại Chi, nhớ bác Điềm Quận trưởng Hải Lăng 1963-65


Mấy chục năm sau trời Hải Lăng đồng Cu Hoan vẫn vậy không thay đổi bấy nhiêu. 
Nhìn hình ảnh này, 'tức cảnh sinh tình' người viết mới biên tặng bạn đọc trong ảnh Hoàng Hải vài dòng như sau:

Philip Dinh
mưa bay bay, trời lành lạnh, vài con nhạn lướt bay trên mặt nước sóng lăn tăn. Người ta vẫn có cái thú dầm mình trong tiết trời mùa đông cùng lụt lội để kiếm mớ cá nước lụt. Đây là niềm vui hàng năm khi mưa lụt trở về; một điệp khúc bất tận của miền trung. Khung trời Cu Hoan vẫn vậy, không thay đổi. Bầu trời xám ngắt, không khí ẩm ướt lạnh lẽo trong ngọn gió trở mùa. Có người vẫn co ro trong tiết lạnh, dù áo che mưa đầy đủ và phương tiện đi lại còn dễ dàng hơn xưa. Người ta thích ra ngoài nhà khi mùa lụt đến. Đây là cơ hội cho mấy chiếc thuyền nan có dịp vẫy vùng trên vùng nước mênh mang sau mùa lúa vừa qua. Hết mùa lúa, đồng Cu Hoan sẽ còn cơ hội cho người dân quanh vùng kiếm thêm lợi tức. Những con cá nước lụt sẽ làm cho nồi cháo bột Diên Sanh bốc mùi thơm ngát hấp dẫn khứu giác nhờ vào tài um cá và ném hành cùng bột gạo đồng Cu Hoan. Tất cả quyện lại thành một món ăn dân dã nhưng bất tử trong lòng người xa xứ. Làm cho khách ra đi dù ở đâu cũng thương về nồi CHÁO BỘT DIÊN SANH (ĐHL TRỰC TIẾP VIẾT TẶNG BẠN HH )

4/1/2022

======================= 

NHỚ MỸ THỦY- MỘT MIỀN BIỂN VẮNG


Đồng môn Nguyễn Hoàng 65-72 Trần Huy trên bờ biển Mỹ Thủy

Những ngày còn nhỏ, tôi được chú Huấn cho lên xe về Mỹ Thủy chơi. Chú là tài xế có thể nói là thâm niên cho chiếc Jeep xanh của Chi Công An Hải Lăng vào năm 1964. Cũng chiếc xe này, tôi hay  theo ba tôi chạy vào Mỹ Chánh nhiều lần. 

Nhưng ngày đó là lần đầu tiên tôi được theo cha về tận Mỹ Thủy. Con đường đất chạy một lát là qua Hội Yên, thêm khoảng mười cây số thì đến ngay Mỹ Thủy. Thật ra Mỹ Thủy chẳng xa Diên Sanh quá nhưng đối với tôi ngày đó quả là một chuyến "hành trình".

Một chuyến đi thời con nít như thế, quả thật trong trí nhớ tôi chỉ ẩn hiện chập chờn. Tới Mỹ Thủy, chúng tôi phải đi bộ qua những đụn cát và phi lao mới ra tới bờ biển. Những xóm nghèo chài lưới nằm lại phía sau. Ngoài xa vẫn biển và ngàn năm vẫn thế, vẫn đụn cát vàng muôn thuở, hoang sơ vắng lặng. Ấn tượng về sự vắng vẻ này đó là những gì in sâu vào tâm trí. Bờ biển vắng, không có sóng bạc đầu và gió chỉ thổi vi vu. Những hàng phi lao thưa thớt ẩn hiện, trong xa vài mái nhà tranh.

Mỹ Thủy, cái tên khá đẹp. Nhưng từ quá khứ đến hiện tại vẫn mãi là bãi biển đìu hiu. Ngày đó tôi chạy một mình lon ton trên bãi biển vắng người, vắng ngư dân đánh cá trở về. Tôi lạc lỏng giữa bãi cát vàng hiu quạnh. 

Tôi còn nhớ khi vào lại thôn, o Vân người nữ y tá thôn, có biếu  ba tôi một ít mực khô. Quà ở đây chỉ ngần ấy chẳng có gì lạ hơn. Tôi chỉ còn nhớ  mấy con mực,  chẳng còn nhớ ba tôi có đợi được thuyền về để mua cá tươi không. Ba tôi đi chuyến đó có công tác gì, bé con như tôi làm sao biết được. 

Chuyện cái thôn nghèo có tên Mỹ Thủy cùng một bờ biển vắng ngày đó, bàng bạc chẳng có gì sâu đậm, lạ làm sao tôi vẫn chưa quên. 

LẦN HAI TÔI NGHE NHẮC LẠI TIẾNG MỸ THỦY

Những ngày nhập ngũ và ra đơn vị, tôi lại đóng quân ở vùng biển quê hương gần Cửa Việt. Một ngày mùa hạ 1974 có chiếc tàu tiếp tế hải quân của miền bắc lạc vào đi quá hải giới Cửa Việt; tôi báo về đơn vị. Sự săn đuổi giữa TQLC khi chiếc tàu lạc đi đến Mỹ Thủy và quay mũi tàu trở lui. Nhưng kết cuộc bị bắn chìm ngang hải giới MỸ THỦY.  

Đứng trên đụn cát cao giữa hai thôn Vĩnh Hòa và Thanh Hội tôi nhìn vào hướng trong. Từ xa một cột khói trắng bốc cao, hướng Mỹ Thủy, chiếc tàu bắc phương chìm lĩm. Hướng đó nhìn vào bờ sẽ có một bờ biển hoang vu,  nơi tôi một lần tới từ thời tấm bé. Một thôn nghèo có tên Mỹ Thủy, một cô y tá già hiền từ. Mấy con mực khô từ biển Mỹ Thủy cô tặng ba tôi sao ăn ngon nhớ đời



Hơn nửa thế kỷ qua đi, theo ý nghĩ của tôi, Mỹ Thủy vẫn chẳng thay đổi bao nhiêu. Vẫn bờ cát vàng hoang vắng cùng  mấy rặng phi lao ngóng ra biển cả. Phải chăng Mỹ Thủy không có điều kiện 'sánh vai' với bao bờ biển đẹp để có sức lôi cuốn du khách. Có thể, khách địa phương hay từ vài nơi khác do tò mò cũng có lần ghé qua Mỹ Thủy,  tắm chơi một bận rồi lại ra đi. Mỹ Thủy không thể có được hình ảnh cảnh ngựa xe tấp nập như những nơi khác đang đầy tràn resorts, khách sạn, khách du lịch từ thành phố xa hay nước ngoài  dập dìu lui tới. Mỹ Thủy vẫn  còn,  nhưng vẫn thu mình với cuộc sống đạm bạc đời thường. Vài chiếc thuyền câu nép mình bên sóng nước, những mớ cá ít ỏi chỉ giúp người làm ngư sống qua ngày, đoạn tháng.  

Từ nơi xa tôi cố hình dung hay tưởng tượng ra một bờ cát vàng thiếu bóng khách về. Biển vẫn vắng như xưa- vẫn  bờ phi lao ru gió đìu hiu. 

--------------------


NGÀY ĐẦU TIÊN ĐI HỌC 


Tìm đâu những ngày thơ ấu qua?
Tìm đâu những ngày xinh như mộng?

 (Nhựng Ngày Thơ Mộng/ Hoàng Thi Thơ)


*****


Lớp VỠ LÒNG chúng tôi là mái trường nho nhỏ chẳng xa Phố Quảng chút nào. Mấy đứa tôi cùng 'xuất thân' từ Phường Đệ Tứ. Cho đến bây giờ chưa có đứa nào quên hình ảnh ngày cùng 'tốt nghiệp vỡ lòng' tại nhà thầy Bồi, vị hương sư  trong cái xóm nằm sau Chùa Tỉnh Hội.

Hè năm 1960, chúng tôi gần nhập học lớp Năm ( lớp một), nên được cha mẹ đem tới nhà Thầy xin làm quen 'sách vở bút nghiên' hơn là ở nhà chuyên bao trò chơi: đánh bi, đá rế hay là đánh căng... 
Tuy nhà Thầy nhận dạy lớp "vỡ lòng" nhưng Thầy kèm luôn các học trò lớp hai, lớp ba, trong dịp hè về.
Đi học nhưng lại bận quần đùi, hàng ngày tôi từ  Cừa Hậu  lên tận Xóm Heo do nhà Thầy ở ngay giữa xóm. Đây là nơi tôi có thêm mấy đứa bạn. Hôm nay, hơn năm mươi năm sau, thế mà tôi tin nhắc lại cái trường "Thầy Bồi', chắc chắn nguòi dân cố cựu phường Đệ Tứ xưa, phần đông đều nhớ. Riêng tôi, trong tâm trí vẫn mường tượng hình ảnh của Thầy trong tuổi trung niên, nguòi tầm thuớc, chắc nịch. Thầy hay bận chiếc sơ mi ngắn tay tuy răng còn nhuộm đen. Uy của thầy tăng thêm do cái roi mây người luôn cầm sẵn trong tay. Ngôi nhà tranh ở sâu trong xóm, gồm nhà trên và nhà duói. Căn nhà dưới đủ chỗ cho mấy chiếc bàn dài, ọp ẹp loang lỗ dấu mực. Nền đất láng bóng do những bàn chân trần chạy tới lui. Mấy chục đứa học trò, nghịch ngợm, ồn ào, cuời nói huyên thiên. Tuy hoang phá lung tung, nhưng chẳng đứa nào dám héo lánh lên nhà trên.
Lớp chúng tôi, vỏn vẹn mấy đứa. Hai con trai Thầy, Đại anh và Đại em giò tôi còn nhớ tên. Nhũng thằng bạn 'đồng song' như Hùng (Xia), Vinh, Hiếu, Lợi ... chúng tôi sẽ 'tốt nghiệp' vỡ lòng tại nhà Thầy. Lạ thật tôi không nhớ có con gái học tại đây?
 Chúng tôi tói lớp, vào nhà thầy, phải qua  một hai lò sát sanh này, nhưng đối vói chúng tôi thuở nhỏ chẳng ai quan tâm chỉ mong mau đến nhà Thầy 'nghịch phá' vui chơi. Thầy, tiếng là cầm roi mây, nhưng ít ai ăn đòn của Thầy.

Tôi nhớ hàm răng đen của vợ chồng Thầy, lại nhớ đến gánh cháo lươn, là sinh kế chính trong gia đình Thầy. Tôi thuỏng thức món cháo lươn nhờ vào buổi tiệc chia tay tổ chức tại trường nhà của thầy. Chúng tôi mỗi đứa xin mạ ba đồng góp vào buổi tiệc chia tay này. Liên hoan trẻ con không là bánh kẹo mà là món mặn hẳn hoi do nhà thầy tổ chức. Ngoài bánh kẹo còn có cháo lươn, là món chính trong buổi tiệc mặn. Hàm răng đen của người hiền nội của thầy, thế mà nụ cười sao mà đôn hậu. Trong xóm không kêu người "nội tướng" của thầy là 'cô' lại kêu là Mụ– “ Mụ Bồi bán cháo lươn” thôi. 
"Gõ đầu trẻ' là nghề tay trái của thầy, duy gánh cháo lươn mói là sinh kế. Ngang đây người kể nhớ đến món lươn um luôn đi cạnh nồi cháo thơm lừng. Tiệc liên hoan, bọn tôi cùng ăn uống trên mấy cái bàn dài hoen mực. Chuẩn bị gặp nhau sau hè, rồi chúng tôi sẽ vào đầu niên học của trường tỉnh tức là Trường Nam QT.
                                ***
Thế là tôi xa cái lớp vỡ lòng, ồn ào, trong cái xóm nhỏ.
 Sau hè 1960, tôi được nhập học Trường Nam Tiểu Học. Một khoảng không xa, từ Phường Đệ Tứ lên khỏi vài cột đèn, tính từ đầu đường Trần hưng Đạo là đến cổng hai của trường nằm phía đuòng Trần hưng Đạo. Có thể nói  là một 'sự kiện' trong đời; nào giấy tờ khai sinh, hộ tịch, nào chầu chực nộp đơn, chờ kết quả. Ba tôi làm xa, tận quận Ba Lòng nên mẹ tôi lo lắng chu toàn. Ngày tựu trường, tôi được mặc cái cụt treo, may bằng vải kaki xanh, áo trắng, đồng phục. Tôi níu tay mẹ, tưởng như đi tới thế giới xa lạ không bằng. Những ngày vui vẻ, dưới mái nhà thầy Bồi tôi bạo dạn chừng nào, thì nay tôi nhút nhát chừng đó. Tôi vào lớp rồi, mẹ tôi còn ngồi lại tại cổng trường, đợi con trai về trong ngày đầu. Tôi ghi nhớ hình ảnh hai bà mẹ cùng bận áo dài, ngồi nói chuyện với nhau trước cổng trường phía bờ sông.

Ngôi trường tỉnh khang trang, uy nghi lắm trong trí nhớ tôi. Lớp Năm C của tôi, sao to lón, lạ lùng quá. Những chiếc ghế riêng cho từng em, có nắp bàn lật lên xuống được, những túi kẹo bi, đồ chơi xanh đỏ treo trên vách tường. Cô Lớp năm trường công đầu đời của tôi là phu nhân của thầy Thái Mộng Hùng. Giờ đây,  hai vị đã là người thiên cổ. Trong lớp thầy cô của chúng tôi, phần đông đã trở về với lớp lớp tiền nhân. Ngay chúng tôi giờ đây cũng đứa còn đứa mất huống hồ gì là bậc phụ sư.

Học ỏ Trường Nam gần bờ sông được một năm, lớp tôi lại dời qua học tại Truòng Nam Cửa Hữu trước cổng thành Đinh công Tráng. Đây là trường phụ nên chỉ là một dãy nhà tranh ngó ra đường Phan đình Phùng. Trường có bốn lớp và một văn phòng nhỏ ở đằng đầu. Tôi học đây được ba năm. Những thầy cô tôi nhớ trường phụ này là Cô Huế, Thầy Biền và Thầy Lưu có dạy một thời gian.  Trong năm lớp tư tôi học với Cô Huế. Cô thật hiền, giọng Huế dịu dàng làm sao. Qua năm lớp nhì tôi nhớ  hình ảnh cái kính lão của Thầy Biền. Thầy vừa chấm bài vừa nhướng mắt ngó xuống lớp- tiếng thước của thầy gõ đôm đốp trên mặt bàn. Tôi không quên hàng nhãn trước sân. Cây đã cao nhưng chưa ra trái...Tôi nhớ cái kẻng bằng thanh sắt đuòng rầy xe hỏa. Bên hông trường là cái nhà giặt ủi rộn ràng cùng mấy cái thẩu kẹo sóc 'im lìm' đợi bán cho học trò vào giờ ra chơi.
                                  
                                    ***
Lên lớp nhất, tôi được qua lại Trường Nam chính. Lóp Nhất C của tôi được thầy Khánh coi, dạy. Thầy Khánh người Huế. Thầy có giọng nói dịu dàng hiền lành; khi cười, mặt Thầy đỏ gay. Thầy  ra dạy tại QT khoảng một hai năm gì đó thôi.
Có lần đi đâu về xóm Cửa Hậu, thầy tạt vào quán mẹ tôi. Gặp tôi đứng bán hàng cho mẹ, thầy cười hiền lành, khen tôi có khiếu viết văn. Lời khen của thầy thật 'linh' làm sao?  Năm 1965, tôi đậu vào lớp đệ thất Trường Nguyễn Hoàng chính là nhờ bài luận khá nhiều.
  Chuyện năm lớp nhất tôi có nhiều bạn cùng phường như Lê xuân Hùng, Trương Lợi, Nguyễn văn Lợi ,Nguyễn văn Bốn, Trần Tài, Trương Sừng, Nguyễn kim Long... những đứa bạn trên phố như Hồ đại Đường, Trần chính Nghĩa, Hồ đắc Lễ, Lê Cảnh Dỏ, Hoàng Đạo- tôi nhớ về  Đạo do bạn đó nói giọng bắc rất đúng. Thầy Khánh hay kêu Đạo lên đọc chính tả cho cả lớp viết. Còn nhiều đứa bạn khác nhưng tôi chỉ nhớ tên không nhớ họ do có khi nào gọi nhau luôn cả HỌ bao giờ...
Chuyện đời dung rủi, lớp bạn bè phường tôi hồi đó nay một lưu lạc phương trời xứ lạ, hai là ở Sài Gòn. Chỉ một ít đang ở Đông Hà
Bạn bè Cửa Hậu-  vc Nguyễn văn Bốn  và Trần Tài Nguyễn Hoa (dưới) 



Trần Tài từ SG về QT Đông Hà thăm bà con mới cuối tháng Bảy 2022 này 





cuối năm 2013 giáp tết 2014, thầy Lê hữu Thăng cùng một số đồng môn Nguyễn Hoàng tới thăm Hồ đại Đường bị tai biến nhẹ tại Sài Gòn

                        Trần chính Nghĩa (đứng) tới thăm vc Đường ở SG 



50 năm sau một Lê Cảnh Dỏ lưu lạc nam phương cùng mang theo tiếng hát đậm đà (hinh 2017)
                                       Hoàng Đạo hiện là "dân Sài Thành" 
Trường Nam qua năm 1965 được xây thêm nhiều dãy truòng mới. Lóp Nhất C của tôi, lưng đối lưng với Ty Tiểu Học. 
Trương Sừng nay xứ người phương trời Texas (2017)
Năm này những học sinh đủ điểm thì miễn thi tiểu học.

 Nhớ về trường Nam Tiểu học Quảng Trị, ký úc tôi còn ghi lại mấy cây ngô đồng đầy gai, ngó ra con đường nhỏ, đìu hiu, nay không ai nhớ nỗi tên, nối hai con đường chính là Trần hưng Đạo - Gia Long. Trái ngô đồng khô rụng, lũ bạn chúng tôi luọm làm bánh xe. Tôi còn nhó hàng phi lao đìu hiu, mấy cây phượng vĩ cổ thụ bên bờ sông im vắng. Cái cổng truòng chính ngó ra sông nhung ít kẻ vô ra.

Nguyễn Kim Long khung trời Bình Dương 2017- bạn Long sau này lên lớp đệ tứ cùng học với tôi một lớp
                                     






hè 1969 Nguyễn k Long còn là tay ghita cho lớp 4/3 
trái qua (con trai) Ngọc Thái, x, Quang Mười-Võ Mầng-Lê thiện Phước- Nguyễn Kim Long (cúi đàn)
                                       *****
Mẹ tôi nay đã quy tiên (2021); tuy vậy một nét khắc ghi sâu đậm từ  quá khứ thuơng yêu trong ngày đầu tiên NHẬP HỌC mãi khắc ghi trong trái tim tôi. Ngôi trường đầu đời còn lại trong hoài niệm. Một ngày  đầu thu, mẹ tôi nắm tay con dẫn đến Trường Nam Tiểu Học- một dấu ấn, một bước ngoặc cuộc đời, cho tương lai của đứa con trai. Dấu chân nhỏ ngày hai buổi đi- về trên con đuòng Lê văn Duyệt thân quen.

Ngày đầu đi học của Thanh Tịnh là hình ảnh " lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bac..." đó là cảm nhận của một nhà văn. Riêng tôi thì không, nhưng tôi tin rằng ngày đó là một ngày cuối thu, tháng chín, năm 1960. Hình ảnh lưu luyến và thuơng hoài trong tim: mẹ tôi áo dài trang trọng, tôi thi` đồng phục chỉnh tề, là ngày 'TRỌNG ĐẠI' nhất cho đứa con trai trong NGÀY ĐẦU NHẬP HỌC./.

Đinh hoa Lư 30/7/2015

2nd UPDATE  11/7/2019



đôi bạn thân thời mẫu giáo lên tiểu học
Lê xuân Hùng và Đinh trọng Phúc (San Jose Liên Trường QT Bắc Cali 28/1/2018)

=============================== 

NHỚ VỀ LÀNG NGOẠI NẠI CỬU 
 (BÊN CỘI MAI GIÀ)




Căn nhà và cội mai già vắng Cậu Hòa đã gần hai mùa xuân rồi. Hôm nay tôi ngắm cội mà cảm giác hình như nó có ‘linh hồn’ cùng ‘lặng buồn’ nhìn vào căn nhà im lìm từ ngày người cậu vĩnh viễn xa nó. Tôi lại nhớ về những năm niên thiếu tôi là đứa cháu ngoại hay về làng nhất. Cứ mỗi khi về tôi lại hay ghé thăm nhà Cậu. Dáng Mệ Tơ lom khom nở nụ cười hiền từ chào thằng cháu trên tỉnh. Rồi Dì Tưởng, một người dì tần tảo bán buôn cực nhọc từ những gánh rau hàng ngày người dì phải chạy bộ lên tỉnh. Rồi chuyện bà con trong làng, kẻ đi lính người tử trận nên làng ngoại mỗi lúc càng thiếu bóng thanh niên...

  Năm nay cây mai già ra bông lác đác. Sắc vàng tuy vẫn tươi giữa những chiếc lá xanh non mạnh mẽ nhưng hình như tất cả càng nhìn lại càng thấy ảo não. Đã hai xuân qua rồi, Cây mai vắng chủ tỉa lá chăm nom, nó đã đón hai cái tết khi những người thân yêu gần nó lần lượt bỏ đi. Cậu Hòa ra đi do tuổi già xế bóng và lớp trẻ phải tha phương tìm cuộc sống. Làm sao tôi quên cho được cái sân này. Cứ mỗi lần về làng tôi ghé thăm nhà Cậu và qua cái cổng nhà nho nhỏ rồi vào cái sân cũng nho nhỏ này. Mái nhà tranh ngày xưa nay nay thay đổi chỉ bằng một mái ngói bình thường đơn giản như cuộc đời của người cậu cho đến lúc người  ra đi.

    Tôi nhớ làm sao, cũng cây mít kia và bụi tre sau nương vẫn còn nguyên vẹn. Đó là những dấu tích vườn xưa còn lại. Nó còn do cái giá của nó chẳng đáng là bao, chẳng đắp đổi gì nên nó vẫn nguyên vậy qua bao ngày tháng. Tôi nao lòng buồn nhất khi nhớ về những người thân thích lần lượt nối tiếp về với trời miên viễn. Lòng se lại khi tôi lặng ngắm một không gian tĩnh lặng, nỗi bồi hồi xúc động chợt dâng trước hình ảnh cái sân im vắng cùng cây mai ngày tết đơn độc ra bông.

*

    Bao nhiêu hình ảnh tiếp nối... cũng bên cội mai đó, một ngày sau năm 1975 tôi tìm cách trốn trại nửa ngày tìm về làng ngoại. Hai vợ chồng cậu không ngờ gặp được đứa cháu. Cậu quay quắt tìm gì cho cháu trước khi về lại trại tù. Đổi thay, túng thiếu, hợp tác xã, cũng như bao hợp tác khác làm không đủ ăn. Ngày đó cậu tôi nghe, ngay mớ rơm cũng chia theo công điểm. Cảnh vườn không nhà trống đúng nghĩa nhất trong buổi giao thời khó có ai quên. 



    Sự thiếu đói khi vào Hợp Tác chính là hình ảnh đụn rơm nhỏ bé bên hông nhà. Cậu Hòa tìm tòi ngó quanh...trên góc chái nhà có con gà đang ấp cậu tôi lấy hết rỗ trứng xuống luộc cho đứa cháu. Hai cậu cháu chỉ có một hai giờ gặp nhau không nói hết những điều thay đổi trong những ngày loạn lạc vừa qua. Người làng ngoại tản mác chưa về nhưng chuyện thanh niên trong làng đang vật vả từ miếng cơm manh áo rồi lại chuyện quy hoạch mồ mả không ai lo? Nhưng rồi phải QUY. Hợp Tác đang cần đất tất cả đều bới tung?

    Cậu nói sao cho hết chuyện đổi thay cho đứa cháu chỉ thoáng trốn về làng non hai tiếng đồng hồ? Hoàn cảnh người trong trại, kẻ ở làng có khác chi nhau? Thiếu khổ túng bấn, vô kế khả thi. Cả bầu trời như tối sầm sập, chẳng tìm ra chút ánh sáng, chẳng khác chi một cơn ác mộng. 
Giờ đây nếu tôi cố tưởng tượng lại cũng không sao hình dung ra hết thứ cảm giác vào buổi giao thời đó.

*
    Chỉ có hai cậu cháu ngồi chênh chếch gần cội mai này, đầu lối vô cái sân đất đầy kỷ niệm.  Cậu tôi chỉ ăn hai cái trứng còn bao nhiêu cho đứa cháu ăn để lên lại trại. Người cậu hiểu tôi thèm khát đủ thứ. Có thể cậu chạnh lòng nghĩ tới những ngày tôi còn là một học sinh trên tỉnh, đầy đủ biết bao?  Ai có ngờ đâu? giờ đây thân phận đứa cháu lại khổ như vậy? Gia đình, bà con, giờ ở trong nam, biền biệt tin tức biết dò ra răng? 
Hai cậu cháu ước gì cái thành phố trên kia giá như mà không có chuyện 1972 thì giờ dù có chuyện 1975 cũng không có cái cảnh làng mạc, họ hàng tứ tán mỗi người mỗi ngã? 

    Cậu ái ngại và thương xót đứa cháu gặp được người thân trong hoàn cảnh oái ăm cùng khổ.  Nét mặt cậu quay quắt đau khổ làm sao, do không kiếm ra cái chi cho đứa cháu trở về bên trại? Từ vườn vào nhà hai vợ chồng cậu chẳng tìm ra chút gì thiết thực cho cháu lúc này? Ôi, cái phút giây trùng phùng cay đắng và buồn tủi!

    Tôi vội đứng dậy, dáng vẻ lấm lét của người tù binh, khi nào cũng thế. Hai cậu cháu bịn rịn chia tay. Cậu còn đứng ngó theo đứa cháu lom khom bước vội như có ai đuổi. Cái dáng cao ốm nhom, chiếc áo ka ki bạc màu với cái túi vải xẹp lép bên vai, đứa cháu khuất dần đầu khúc quanh xóm Rộộc...
Hắn sẽ đi lên xóm Chùa, tìm người ông bà con nhánh phái bên ông ngoại hắn.

              II   GÔ CƠM HẤP SẮN 

    Ôn Hạch (Võ Hạch) sáng nay đang ngồi chuốt lại mấy sợi lạt tre còn sót, gom được vài bó đầy. Ngày mai bà con trong xóm sẽ tới phụ lợp mái nhà mới cho đứa con trai. 
Mặt trời mới hơi nghiêng con sào mà trong xóm hôm nay tự nhiên ôn thấy vắng ngắt. Ôn Hoạch có cảm giác vắng vẻ này từ năm ngoái, tức là năm 1975 cái năm mà chính quyền trong nam này sụp đổ. Bà con có dính đến chính quyền thì đi "học tập" mô xa ôn chẳng rõ. Trong khi có người chạy tuốt vô nam , lại có một số thì đi kinh tế mới tận Khe Sanh.

   Hòa bình rồi, hết tiếng súng,tiếng pháo hằng đêm ,hết chạy tản cư lên chợ Tỉnh. Đó là cái mừng ban đầu cho ôn cũng như mọi người khác trong làng Nại Cửu. Nhưng sau một thời gian, ôn Hoạch bỗng dưng cảm thấy cái buồn khác ập đến. Đó là sự thiếu vắng, cô quạnh do một số bà con mà ôn hàng ngày 'chộ' mặt nay thất tán tứ phương?

   Hợp Tác Xã làng ôn cũng có rồi. Đợt quy hoạch đất đai dưới Phát Lát tức là ngã ba ngó qua bên tê Ba Bến gần nhà mấy đứa cháu khác trong chi phái ôn tức là thằng Dâu, thằng Tú, cũng còn may là còn mấy đứa này. Tại răng mà may? Ôn nghĩ, số là khi quy hoạch mồ mả mấy đời nay dưới Phát Lát, thanh niên trong làng không còn nhiều, bốc mả thì nhiều, lại di dời khá xa nếu không có mấy đứa cháu còn sót lại như thằng Dâu thằng Tú thì mả mồ trong phái ôn lộn xộn, sót vãi hết trơn!

  Thiệt tình trong bụng ôn chẳng ưa chi cái chuyện 'di dời' mồ mả cha ôn hàng loạt như rứa! nhưng thời thế đổi dời, mấy ai mà "bẻ nạng chống trời"?

   Con chó già đang nằm bên đụn rơm trước sân, cái mõm nó kê lên nền đất cày của cái sân phơi trước nhà . Bỗng nó sủa lên vài tiếng khàn khàn làm ôn Hoạch ngước nhìn lên...

      Một người thanh niên dáng ốm cao lỏng khỏng đang lom lom bước vào sân ôn. Người thanh niên này cái áo bộ đội bạc màu như lượm của ai , đầu đội cái mũ vải tai bèo , bên vai lại đeo cái túi tự may bằng vải cũ bạc màu , đường may vụng về thô kệch.

  - Ôn Hoạch, ôn ..ôn còn nhớ cháu khôn?

  - ờ ờ,,,eng là ai đây hè ?!

  -Cháu là thằng Phúc, cháu cậu cư ở trên tỉnh đây!

  -Cháu eng Cư trên tỉnh? phải cháu Bác BếpThỏn khôn rứa?

  -Đúng rồi ôn, mệ ngoại cháu là bếp Thỏn, mạ con là Nhỏ dì con là Nhoi đó mà.

  -Ui cha thằng Phúc! con ở mô về đây? nhà con ra răng rồi?

   Người thanh niên mừng khấp khởi khi ôn Hoạch nhìn ra đứa cháu . Anh ta nói lại tình hình gia đình và bà con trên tỉnh cho Ôn nghe, xong lại nói về tình hình chính anh đang "cải tạo" bên thôn Hiệp Khế cũng gần Nại Cửu Phường, phía bên kia sông Thạch Hãn.

Nhớ lại thằng cháu trên tỉnh ôn Hoạch mừng lắm . Mấy năm trước, những lúc cúng kỵ trên nhà mệ ngoại thằng cháu này, khi nào ôn Hoạch cũng chộ mặt. Hồi đó mỗi lần lên Tỉnh, ôn chộ trong nhà Bác Bếp Thỏn -tức là bác mụ, vì ông Bếp Thỏn đã mất từ năm 1949 - khi nào cũng đông đúc. Những đúa con trai Bác Bếp "mai vàng mai trắng" đeo trên cổ áo. Bác Bếp mụ thì xuất gia qua tu bên chùa Sắc Tứ, nên nhà trên lúc nào bàn thờ phật cũng trang nghiêm.

   Rứa mà...theo lời đứa cháu trưa nay tạt vô thăm ôn kể lại, nhà mệ ngoại nó trên tỉnh giờ phiêu dạt khắp nơi chẳng còn ai trên nớ? Ôn vừa nghe vừa gật gật đầu mắt như huớng về hướng tỉnh, nơi có một thành phố chỉ là một đống gạch, người ta đang ra công xây lại.

   -Rứa... chừ con ở đây một chắc, khôn ai thăm nuôi con hết răng?
   -Dạ nhà con trong nam hết chẳng còn ai đây cả ôn nờ!

    Ôn chắt lưỡi ái ngại cho đứa cháu ngoại trong làng . Thời chiến trận, xao lạc hết trơn! Thằng cháu ni về ngang làng làm ôn nhớ mấy đứa cháu khác, mấy năm trước theo trận Hạ Lào chết mất xác bên đó luôn, chừ không biết ngày đơm tháng kỵ là ngày mô nữa?

  Như nhớ ra, ôn Hoạch thình lình hỏi:

   -Rứa con ăn chi chưa?

  -Dạ con có ghé cậu Dâu nhà cậu không có chi để nấu cả, chỉ còn ổ trứng con gà đang ấp cậu ấy truống xuống luộc hết "bồi dưỡng" cho con rồi ôn nờ.

  Nhắc đến đây,người thanh niên nhớ hình ảnh vợ chồng cậu Dâu cùng ngồi chồm hổm giữa cái nền sân đất. Mấy cái trứng gà chưa nở, bị luộc vội cho đứa cháu đang ở tù ăn nhanh để lên lại trại. Cậu ấy vừa nhìn cháu ăn vừa hỏi chuyện. Người cậu ít nhiều lo lắng cho đứa cháu lên kịp trước điểm danh không? Trong nhà rõ ràng quá túng không biết lấy chi mà nấu cho đứa cháu, hắn xuất hiện quá bất ngờ, quá gấp gáp chẳng khác chi "một kẻ tội phạm", lấm lét như sợ ai nhòm ngó.

      -Ui chà! tội rứa ...đợi chút con, ôn nấu cơm cho con ăn nghe!

      -Thôi ôn, con phải đi chừ ôn ơi, con ghé thăm ôn chút con lên khôn thì khôn kịp họ biết thì khổ .

    Ôn Hoạch lay hoay không biết lấy chi cho đứa cháu ngoại trước lúc nó đi. Ôn đang tìm một thứ chi đó xung quanh.

  -Con có cái chi đựng khôn rứa ?

  - Dạ, con có cái lon gô đây ôn.

Nói xong, anh vội lấy cái lon gô đen trong cái túi may tay đeo cạnh đưa ra cho ôn.


 Bỏ hết phần cơm nguội trong cái nồi đồng nhỏ vào cái lon nhôm cũng chưa đầy, ông Hoạch vừa dận cơm xuống vừa ái ngại bỏ thêm mớ sắn lát hấp cho đầy cái gô, vừa nói:

    -Ôn thêm ít sắn nì nữa lên trại ăn cho no nghe con.

    Hai ôn cháu chỉ gặp nhau trong thoáng giây, người thanh niên vội vã đi.  Ôn ngồi thừ trước hàng hiên ngó theo đứa cháu ngoại trong làng, cái dáng lỏng khỏng cao của nó xa dần....


     III- CHUYỆN BA MƯƠI LĂM NĂM SAU  (năm 2010)


   Nhà Dì An ở gần chùa Nại Cữu và cũng gần nhà thờ họ VÕ. Nhà dì cũng đầy đủ xe nổ có điện thoại đời sống không đến nỗi "chân lấm tay bùn ". Ngó vậy cũng không phải là dì có ông anh tức là ông Võ Đản đi Mỹ -mà nhờ dì biết làm ăn. Ông anh năng gửi tiền về làng nhưng trước là đóng góp, tôn tạo cho xong nhà thờ họ Võ sau là ủy lạo một vài bà con già cả neo đơn mỗi người vài ba chục ký gạo mỗi kỳ cho có tình làng nghĩa xóm. Nghĩa là ông anh dì An ở xa nhưng ông anh và bầy con cháu bên Mỹ không quên làng nước bà con. Đó là dì An sung sướng rồi, chẳng cần chi hơn nữa.

    Mấy ngày nay trong nhà dì bàn tán một chuyện là lạ. Số là ông Hoạch mất lâu rồi răng mà có người bên Mỹ gửi tiền về cho ôn? Hôm ni tức là mười hai giờ trưa theo hẹn nói chuyện với ông anh bên Mỹ, dì An sẽ hỏi cho ra lẽ ?

dì Võ thị An qua thăm ông anh là Võ Đản tại San Jose có ghé thăm nhà ĐHL vào năm 2017 (ngồi bên phải của ĐHL bên trái là mợ Đản )
-----
  Tiếng ông Đản đầu dây bên kia:

   -Rứa o không nhớ thằng phúc à , con o Nhỏ trên tỉnh ở trước mặt Lao xá hồi nớ đó?

   -A cái thằng cháu ngoại o Bếp Thỏn, trắng trắng, cao cao phải khôn eng?

   -Đúng, đúng rồi ...số tiền nớ hắn bảo ngày giỗ ôn Hạch năm ni mua phẩm vật đặt trên bàn thờ cho ôn để nhớ ngày và nhờ o khấn giúp cho hắn như vầy như vầy ...

  -Dạ em nhớ rồi eng, để em mua và qua  bên nhà ôn Hạch khấn như rứa.

   Cái chuyện gô cơm độn sắn cho người tù cải tạo năm nào từ miệng ông Đản, qua tai dì An, tiếp đến là đầu đề cho ngày giỗ ôn Hạch năm 2010. Bà con trong làng vào ngày đó, vừa ăn kỵ vừa trạo chuyện "gô cơm độn sắn" mà khen cho tấm lòng biết ơn của đứa NGOẠI trong LÀNG,  một ngày sa cơ thất thế./.


ĐHL edition  
15 -8- 2023  San Jose USA




No comments:

Post a Comment