tác giả: Cố Đại Tướng Cao văn Viên, TTMT/ QLVNCH
Một trong những khó khăn của quân đoàn I không giải quyết là nạn dân tị nạn chiến tranh. Ở Vùng I dân chạy nạn khỏi vùng giao tranh không phải là một vấn đề mới. Mỗi lần giao tranh lớn là có dân tị nạn—và dân chúng vùng I đã kinh nghiệm chuyện đó nhiều lần trong chiến tranh VN. Trận Mậu Thân năm 1968; trận tổng tấn công của CS năm 1972; và những lần giao tranh khác.
Người
dân Vùng I không bao giờ quên những ác mộng hãi hùng đó. Thân phận của người
dân miền Trung như bị đày phải sống trong lo sợ và phải chạy trốn cuộc chiến
thường xuyên trong cuộc sống. Trước khi cộng quân mở cuộc tấn công thực sự, người
dân đã đoán được cường độ mãnh liệt của cuộc chiến sắp đến, và họ đã chuẩn bị để
gồng gánh di tản.
Đồng bào vùng giới tuyến ra đi 1972
Từ sau hiệp định ngưng bắn 1973, dân chúng ở Vùng I và những
tỉnh phía bắc Vùng II sống liên tục trong sự lo âu. Họ lo sợ vùng đất họ đang ở
sẽ bị cắt cho cộng sản. Nếu không liên hiệp với cộng sản như tổng thống Thiệu
đã khẳng định thì nhường một phần đất có thể là một giải pháp cho cuộc chiến.
Tin đồn về chia đất được loan truyền và phóng đại. Ban đầu là tin đồn chia đất
dọc, rồi theo đường ngang ở vĩ tuyến 16. Sau khi Phước Long mất, sau đó là Ban
Mê Thuột, và khi thấy chính phủ VNCH không còn hi vọng nào lấy lại những phần đất
đã mất, mọi người tin chắc không sớm thì muộn VNCH sẽ nhượng đất cho cộng sản.
Rồi Pleiku và Kontum di tản với không một lời giải thích từ chính phủ ngay cả
cho dân chúng ở vùng đó biết. Cuộc di tản từ vùng cao nguyên vẫn đang xảy ra
khi CS tràn qua sông Thạch Hãn chiếm Quảng Trị vào ngày 19 tháng 3. Một lần nữa
chính phủ vẫn không tuyên bố hay đề cập gì đến chuyện này. Không còn nghi ngờ
gì nữa—người dân suy luận—đây là sự dàn xếp của chính phủ; lời đồn rất có thể
đúng; chia cắt đất có thể là một thực tế.
Thêm vào những sự kiện trên, sư đoàn Nhảy Dù được điều động
khỏi Vùng I. Đối với người dân Vùng I, sư đoàn Nhảy Dù là đơn vị duy nhất đem lại
lòng tin của người dâ. Người dân sẽ được bảo vệ khi họ có mặt ở đó; họ là niềm
tin của người dân vào chính phủ. Khi người dân tự hỏi, chính phủ có ý định gì
khi di chuyển sư đoàn DÙ đi khỏi Vùng I? Câu trả lời họ có thể tìm được là
chính phủ không có ý định giữ phần đất này nữa. Không còn sư đoàn Dù thì làm
sao giữ được lãnh thổ này. Không còn lính Dù thì cuộc tái chiếm Quảng trị năm
1972 khó thành, và không có họ thì CS đã tấn công Đà Nẵng sau khi chiếm được
Thượng Đức vào năm 1974.
Người dân chuẩn bị đi không ngần ngại. Ban đầu chỉ một
thiểu số nhỏ gồm có tiền mua được vé máy bay. Lần lần số người bỏ đi đông hơn.
Khi tin Pleiku và Kontum mất được loan truyền đến tai dân Vùng I, mọi người lũ lượt ra đi. Hàng chục
ngàn quân nhân, công chức, dân, tìm cách về Đà Nẵng, rồi từ đó về Sài Gòn nếu
có phương tiện. Với tin đồn chính phủ sẽ chia Vùng I cho CS như đã làm ở Pleiku
và Kontum, luồng sóng di tản dâng cao hơn. Khi thủ tướng Khiêm và các viên chức
chính phủ bay ra Đà Nẵng duyệt xét tình hình để giải quyết, thì Đà Nẵng đã có
hơn nửa triệu dân tị nạn.
Tướng Trưởng nhiều lần nhắc nhở và khẩn cầu thủ tướng
Khiêm giải quyết vấn đề dân tị nạn lập tức. Vấn đề dân tản cư từ những vùng
giao tranh đã trở thành một vấn nạn quốc gia, và Vùng I không đủ phương tiện
hay nhân lực để giải quyết. Sự có mặt của Thủ Tướng Khiêm ở Đà Nẵng là một chuyện
cần thiết.
Trước khi chủ tọa cuộc họp giải quyết vấn đề tị nạn, thủ
tướng Khiêm có nói chuyện riêng với tướng Trưởng về tình hình quân sự và kế hoạch
triệt thoái. Tướng Trưởng nhấn mạnh về sự giao động của người dân. Thủ tướng
Khiêm giật mình khi nghe những gì tướng Trưởng trình bày. Ông không ngờ tình
hình thay đổi nhanh như vậy. Thủ tướng Khiêm nói với tướng Trưởng nên trình bày
kế hoạch triệt thoái của ông cho tổng thống Thiệu phê chuẩn trước khi thực hiện
Buổi họp có đủ mặt hội đồng nhân sĩ, tỉnh, thị trưởng,
cũng như các cấp chỉ huy liên quan đến vấn đề tị nạn. Lần lượt, tỉnh trưởng Quảng
Trị và thị trưởng Đà Nẵng trình bày khó khăn đang đối diện, và đưa ra những đề
nghị giải quyết. Vài giải pháp được đưa ra như: (1) Trừng trị thẳng tay những
công chức bỏ nhiệm sở khi chưa được lệnh. (2) Cho phép di tản thường dân, thân
nhân binh sĩ, công chức, để những quân cán đang đảm trách nhiệm vụ phòng thủ bớt
lo lắng quan tâm.
Ngồi chung với thủ tướng Khiêm là các thứ bộ trưởng của nội
các. Họ là đại diện của thẩm quyền trung ương. Họ quan tâm tới vấn đề của người
tị nạn, nhưng họ không giúp đỡ gì được. Họ chỉ có thể cho phép cấp chỉ huy địa
phương nhiều thẩm quyền hơn để giải quyết
tại chỗ những khó khăn đang xảy ra. Để kết luận, thủ tướng Khiêm quyết định
thành lập một Ủy Ban Liên Bộ phụ trách về vấn đề tị nạn, do một phó thủ tướng cầm đầu. Ủy ban này sẽ lấy đi gánh
nặng cho Vùng I, để họ có chú tâm về vấn đề quân sự. Đồng thời thủ tướng Khiêm
hứa sẽ trưng dụng thêm nhiều tàu của tư nhân để gia tăng các chuyến di tản. Buổi
họp chấm dứt trong một bầu không khí hoang mang. Thủ tướng Khiêm và nội các trở
lại Sài Gòn ngay sau buổi họp.
Một tuần sau, những hứa hẹn của thủ tướng Khiêm được thể
hiện qua một đại tá và một đại úy đến từ Bộ Xã Hội, với ngân phiếu yểm trợ tài
chánh cho Đà Nẵng. Bây giờ dân tị nạn nguyên Vùng I tập trung tại ba cứ điểm
Chu Lai, Đà Nẵng và Huế. So với sự giúp đỡ từ chính quyền trung ương , phong
trào cứu trợ tổ chức tại địa phương mang lại nhiều hiệu quả hơn. Tại thị xã Đà
Nẵng một số hội đoàn từ thiện, nhân sĩ và phú gia đóng góp nhiều vào những hoạt
động gây quỹ cứu trợ dân tị nạn. Tuy nhiên những giúp đỡ địa phương này chỉ có
giới hạn—vấn đề tị nạn ở Vùng I đã vượt ra ngoài khả năng của một nhóm người
hay đoàn thể tư nhân.
Dân và gia đình binh sĩ ở Huế bắt đầu rời thành phố vào
ngày 17 tháng 3. Quốc Lộ 1 về Đà Nẵng tràn ngập người và xe. Một số dân tị nạn
tìm cách đi bằng đường biển. Họ đổ về bến tàu Tân Mỹ, nơi các tàu hải quân đang
bốc dờ quân nhu quân dụng tiếp tế cho chiến trường Quảng Trị-Huế. Trên đường về
họ phải di tản chiến cụ về Đà Nẵng. Hoạt động của bến tàu bị gián đoạn hai ngày
vì sự cản trở của số người tị nạn. Một vài giang đỉnh đang chờ cập bến để bốc
hàng lên, bị dân, lính tràn xuống ép phải chở họ rời bến. Giới chức phụ trách bến
tàu phải bỏ ra một ngày để thuyết phục. Dân tị nạn rời Tân Mỹ và đi về bãi biển
Thái Dương Thượng, hy vọng tìm được tàu để ra đi.
Ngày 21 tháng 3 hai sư đoàn CS cắt đứt quốc lộ 1—con đường duy nhất dẫn về Đà Nẵng. Đoàn người tị nạn rời đường lộ, theo hướng Phá Cầu Hai để đi về miệt biển.
Tất cả tàu bè miền duyên hải hoặc bị cướp, hoặc được mướn
để xử dụng vào việc chạy nạn. Nhưng thuyền bè không đủ cho số người tị nạn quá đông. Vì tàu hải quân
đang được trưng dụng vào công tác tiếp viện cho chiến trường Qui Nhơn-Ban Mê
Thuột, BTTM thương lượng mướn thương thuyền Trường Thanh, có trọng tải 2000 tấn,
để chở người tị nạn. Đây là thương thuyền duy nhất quân đội có thể tìm mướn được.
Ngày 23, mặc dù sóng to, tàu Trường Thanh cập bến, và trong hai ngày tiếp nhận
hơn 5000 người, trong đó có nhiều thân nhân, gia đình, của sư đoàn 1 BB. Chuyến
tàu chở dân tị nạn rời Huế về Đà Nẵng ngày 25. Đà Nẵng lúc đó tương đối an ninh, nhưng thành phố đã chật nứt với dân
tị nạn.
Một tàu đổ bộ của Hải quân Việt Nam chất đầy người tị nạn từ Huế, ghé Đà Nẵng hôm 24/3/1975
Huế bị bỏ ngỏ vào đêm 25 tháng 3. Dân quân rút theo bờ biển
về Đà Nẵng. Tam Kỳ mất ngày 24, Chu Lai di tản ngày 26. Dân ở hai tỉnh Quảng
Ngãi và Quảng Tín chạy về Đà Nẵng.
Ngày 26 tướng Trưởng gởi thiếu tướng Huỳnh văn Lạc, tư lệnh
phó lãnh thổ chánh Vùng I, về Saigon trình cho tổng thống Thiệu, thủ tướng
Khiêm và tác giả về những khó khăn Vùng I đang đối diện. Tướng Lạc xin chánh phủ
giải quyết ngay vấn đề tị nạn, đưa bớt dân ra khỏi Đà Nẵng vì thành phố sắp
rơi vào tình trạng hỗn loạn không kềm chế
được. Nếu tình trạng dân tị nạn không giải quyết được thì Đà Nẵng sẽ tự sụp đổ,
không cần CS tấn công.
Chu Lai đổ về
Đà Nẵng
Đà Nẵng đã trở thành một thành phố vô trật tự và rối loạn.
Kẻ đến thì tìm nơi nương tựa; người đang ở đó thì tìm cách trốn đi. Lưu thông
trong thành phố bị ứ đọng đến độ không thể di tản được 340 thương binh từ bệnh
viện ra phi trường. Trung tướng Lê Nguyên Khang, tổng tham mưu phó BTTM, tường
trình về tình hình Đà Nẵng sau một chuyến công vụ ở đó: “ Đà Nẵng có hơn một
triệu rưỡi dân tị nạn. Họ chiếm các công thự, cao ốc của chính phủ để làm nơi
nương thân; họ ngủ ngoài đường, ở bến tàu hay bất cứ chỗ nào có thể tạm trú qua
ngày. Trong thành phố những cảnh nhiễu
nhương, cướp bóc, giết người xảy ra giữa ban ngày. Người di tản trên nhiều đến
độ xe tăng muốn di chuyển chỉ còn cách cán vào đám đông ấy để đi.
Ngày 27 tháng 3 có chuyến phi cơ dân sự đầu tiên mướn của
Hoa Kỳ đáp xuống Đà Nẵng. Chính phủ định dùng phi cơ Mỹ để di tản 14 ngàn dân từ
Đà Nẵng về Cam Ranh. Nhưng tin có máy bay Mỹ di tản chẳng mấy chốc lan truyền
ra. Dân di tản—trong đó có thành phần đào ngũ—phá rào phi trường và tràn vào
phi đạo tìm cách leo lên phi cơ. Lực lượng an ninh phi trường phải bỏ ra nửa
ngày để giải tán đám đông ở phi đạo. Nhưng hỗn loạn lại tái diễn mỗi khi có
chuyến bay đáp xuống. Sau cùng các chuyến bay dân sự bị đình chỉ vì sự mất trật
tự trở thành nguy hiểm cho sự an toàn của phi cơ. Sau cùng, giới chức hữu trách
thay các phi cơ dân sự bằng bốn phi cơ quân sự C-130. Nhưng trước những hỗn loạn
liên tục, bốn chiếc này cũng chỉ cất cánh được một lần vào ngày 29 tháng 3.
còn tiếp 1 kỳ
phần HAI
No comments:
Post a Comment