CUỘC CHIẾN VN ĐÚNG
RA HOA KỲ VÀ ĐỒNG MINH ĐÃ CHIẾN THẮNG
TT Lyndon B. Johnson và Ngoại Trưởng Dean Rusk
NHỮNG KHÁM PHÁ BẤT NGỜ
Từ năm 1990 tôi (Mark Moyar) đã
quan tâm khảo sát về cuộc Chiến tranh Việt Nam lúc tôi là sinh viên về Khoa Lịch
Sử về Chiến Tranh Thế Giới (xung đột thế giới). Có vấn đề thu hút tôi nghiên cứu về với chủ đề
này đến từ tâm lý khinh miệt của các đồng
nghiệp, giáo sư và kể cả giới trí thức nói chung không chỉ dành cho chiến tranh
mà còn dành cho các cựu chiến binh trở về từ cuộc chiến. Riêng đối với tôi,
tôi cho rằng đó quả là một lỗi lầm sâu sắc khi cho rằng những thanh niên Hoa Kỳ
từng ra đi và liều mạng ở chiến trường Đông Nam Á lại bị coi khinh là kém xứng
đáng hơn những người đã sống ru rú cùng an vui ở nhà.
Vấn đề thứ hai làm
tôi phải đào sâu nghiên cứu do thói thường phần đông người ta cứ cho là Cuộc
Chiến VN không bao giờ có thể thắng được. Theo biên khảo của nhiều sách vở lịch sử dòng chính,
Hoa Kỳ không bao giờ có thể chiến thắng trong cuộc chiến do người Cộng sản Việt Nam luôn cống hiến hi sinh và sự hi sinh đó được cho là vượt trội hơn nhiều so với các đồng
minh Nam Việt Nam của Hoa Kỳ. Cũng vì lý do đó, nên không thể có chiến lược
thay thế hay hơn nào có thể đạt được thành công trong cuộc chiến, và do vậy người
Mỹ đã phải từ bỏ VNCH sau khi chịu thương vong và tổn thất quá lâu dài.
Lên
Cao Học, khi tôi tiếp tục theo đuổi nghiên cứu về Chiến Tranh Việt Nam, tôi bắt
đầu đặt câu hỏi về cả hai điều trính bày trên. Tôi đào sâu vào những kẽ hở sâu xa của cuộc chiến, từ đó tôi
đã thu được vô số thông tin chưa được khai thác về một hướng nghiên cứu khác.
(Tôi có được nhiều khám phá phong phú hơn đó là nhờ Merle Pribbenow, một nhà
ngôn ngữ học nghỉ hưu, ông đã tìm tòi và dịch rất nhiều tài liệu và lịch sử từ
phía miền bắc VN.) Những nguồn tư liệu của miền Bắc đã làm sáng tỏ thêm những tranh luận bao lâu
nay. Các tư liệu mới cho thấy miền bắc thật ra đã lãnh đạo các cuộc “kháng chiến”
tại miền Nam Việt Nam ngay từ những ngày đầu tiên dù Hà Nội từng thuyết phục và tuyên truyền cho phương Tây cả
tin rằng kháng chiến đó chỉ là ‘phong
trào địa phương’ thuần túy. Họ cũng bác bỏ quan điểm mà ai cũng tin là
chính phủ VNCH rõ ràng từng quay cuồng về mặt quân sự sau thời điểm Ngô Đình Diệm
bị ám sát vào tháng 11 năm 1963.
Có
những khám phá khác đó là kết quả nghiên cứu thêm các khía cạnh bị bỏ quên cho
đến nay của cuộc chiến đó. Chẳng có nhà sử học nào trước đó đã xem xét chi tiết
những gì diễn ra trong ván cờ “domino” lân cận khi Lyndon Johnson đưa ra quyết
định định mệnh vào năm 1965 là đưa bộ binh Hoa Kỳ vào miền nam VN. Trên thực tế,
ở Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Úc, Đài Loan, Hàn Quốc và
Singapore, các nhà lãnh đạo chống Cộng đã cảnh báo trước rằng sự sụp đổ của
VNCH sẽ khiến tất cả các quân domino Đông Nam Á sụp đổ theo. Họ đã đề nghị đưa
quân vào cuộc chiến với mục đích chống lại chủ nghĩa CS. Đột nhiên, lý thuyết
domino đó xem ra có vẻ hợp lý hơn nhiều.
CHIẾN THẮNG BỎ QUÊN
Khi
tầm rộng của lãnh thổ trở nên rõ ràng,
tôi đã dự kiến và hoàn thành BA TẬP về Chiến Tranh VN. Tập thứ Nhất- kể từ năm 1954 đến năm 1965, tôi đã mất bảy năm để
hoàn thành. Tập thứ NHẤT này có tiêu đề “ CHIẾN THẮNG BỎ QUÊN Triumph Forsaken”, nó nhanh chóng bị xem là ‘CHỦ NGHĨA XÉT LẠI’. Lý do, ý nghĩa của tập này căn bản nó thách thức
tính chính thống đang ngự trị nước Mỹ. Phải kể ra đây, nó đi cùng với một số ít
sách khác trong danh mục đại loại như “A Better War” của Lewis Sorley và “Dereliction of Duty” của H. R.
McMaster.
Cuốn
Triumph Forsaken cho chúng ta hay rằng Hồ Chí Minh là một người Cộng sản có học
thuyết Cộng Sản. Giống như các đồng minh Liên Xô và Trung Cộng, ông ta là biết tuân thủ quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin rằng những người Cộng sản
nên hợp tác trong việc truyền bá cách mạng thế giới. Vào thời điểm TT Lyndon B. Johnson quyết định đưa bộ
binh tham chiến tại miền nam Việt Nam, Hồ
chí Minh và đồng minh CS đã gần đạt được mục tiêu là biến toàn bộ Đông Nam Á
thành Cộng sản, và rất có thể họ đã thành công nếu Hoa Kỳ không ra tay kịp. Sự can thiệp của Hoa Kỳ đã tạo ra khả năng
làm tiên đề cho một cuộc đảo chính chống Cộng sản ở Indonesia và sự tự tàn phá
của Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc, đồng thời giúp các quân cờ domino châu Á
khác tăng cường khả năng phòng thủ.
SAI LẦM TỪ MỘT TỔNG THỐNG CHO ĐẾN ÔNG ĐẠI SỨ
Tôi (Mark) cho rằng chiến tranh không chỉ cần
thiết mà còn có thể chiến thắng bằng các quyết định chiến lược tốt hơn thế. Sai lầm nghiêm trọng nhất là quyết định
của đại sứ Mỹ tại Nam Việt Nam đó là ông Henry
Cabot Lodge người đã xúi giục đảo
chính lật đổ chế độ ông Ngô Đình Diệm, làm sụp đổ bộ máy an ninh VNCH và gián tiếp giúp Bắc Việt bắt đầu tiến hành cuộc xâm lăng to lớn vào miền Nam.
Có thêm một sai lầm khác, quyết định của TT Johnson không đưa lực lượng bộ binh Mỹ vào Lào để chặn Đường mòn Hồ Chí
Minh, một động thái quá thiếu thông minh do điều đó có thể làm thay đổi cục
diện cuộc chiến và giảm nhu cầu về lực lượng Mỹ tại miền nam.
Cuốn
sách Triumph
Forsaken đã tạo ra nhiều cuộc bàn tán, thảo luận đáng kể trong giới học giả,
bao gồm một lượng lớn phản hồi, “ Chiến
Thắng Đã Thấy”. Có một số thảo luận mang tính xây dựng, nhưng phần lớn
trong số đó tẩy chay, nhỏ nhặt, thậm chí là nói xấu với người khác. Có điều đặc
biệt khi chuyện này đến tai các cựu chiến binh thuộc phong trào phản chiến cùng
những người được họ bảo trợ. Mặc dù một số ít giáo sư hoan nghênh, có không ít
thách thức chứng minh rõ ràng đối với tầng lớp hiểu biết nông cạn, thì cuốn
sách đó chỉ nhận lại sự thù địch tập thể
của số đông và kết quả gây thất bại cho
tôi nộp đơn xin vào làm một vị trí giảng viên hàn lâm viện đều bị chống phá
gay gắt.
Tôi
nói ra sự thật này không phải để được CHO NHẬN vào tầng lớp nạn nhân ngày càng nhiều của Hoa
Kỳ - những bất hạnh của tôi với giới học giả lại dẫn đến may mắn bất ngờ là được vào
dạy những sinh viên xuất sắc tại các trường đại học quân sự của Hoa Kỳ để
tiến hành nghiên cứu về các chủ đề quân
sự cần thiết và cấp bách nhất. Thay vào đó, nó chỉ ra những mối nguy hiểm đối
với xã hội của một học viện bị chính trị hóa. Khi một nghề chứng minh rằng biết phát triển dựa trên những ý tưởng mới
và tranh luận thay vì tẩy chay những người đưa ra những quan điểm chính thống
nhất định, thì nó không bao giờ tước đi cơ hội tiếp cận của sinh viên với những
suy nghĩ nghiêm túc và sẽ không khuyến khích phần còn lại của xã hội phớt lờ
nó. Cách duy nhất để có kết quả tốt đẹp
trong nghiên cứu quân sự là chứng tỏ rằng nó cởi mở với những thách thức và sẽ xem xét nghiêm túc những ý tưởng mới.
Thách thức trong các quan điểm
chính thống xung quanh Cuộc Chiến Việt Nam ngày nay cũng có vai trò cần thiết
hơn bao giờ hết. Khi tôi làm cố vấn nghiên cứu quân sự tại Afghanistan, Iraq và các vùng xung đột khác,
tôi đã thấy các chính trị gia, sĩ quan quân đội, nhà báo và nhà khoa học chính
trị tìm cách áp dụng các bài học của Cuộc
Chiến Việt Nam. Càng khảo sát, tôi càng tin rằng họ hiểu biết khá hời hợt về
lịch sử chiến tranh đó. Thêm vào đó, họ tỏ ra phụ thuộc quá nhiều vào lý thuyết
học thuật cũ từng mang lại cho họ những
kinh nghiệm tệ hại sai lầm - những kinh
nghiệm chiến tranh sai lạc càng mang tới nhiều cái chết cho đàn ông và đàn bà,
thậm chí có thể thua cuộc trong cuộc chiến tranh mới.
Thực tế trong nghiên cứu gần đây,
tôi tập trung vào các sự kiện lịch sử của năm 1967, trong chiến tranh VN và tôi
đã đưa ra ánh sáng những điều mới mẻ, quan trọng trong các cuộc hội luận tại
Hoa Kỳ các tác động quyết định do chiến tranh mang lại. Trong số những sự kiện
lý thú và hấp dẫn nhất của năm 1967 là sự
hối tiếc của chính quyền Johnson khi
Johnson quyết định không tạo ra sự tìm cách thảo luận công khai trong nước để tạo
ra làn sóng hay phong trào ủng hộ cho cuộc
chiến do sự cần thiết của cuộc chiến đáng cần phải có. Các quan chức Hoa kỳ giờ đây mới nhận thức rằng sự thiếu nhiệt tình của
công chúng đối với cuộc chiến càng khuyến khích đối phương tin rằng Hoa Kỳ cuối
cùng sẽ từ bỏ đồng minh, và do đó Bắc Việt Nam không có lý do gì để bỏ cuộc.
MỘT CUỘC CHIẾN KHÔNG THỂ CHIẾN THẮNG NẾU NGƯỜI DÂN HOA KỲ KHÔNG BIẾT VÀ KHÔNG CẦN BIẾT LÀ ĐANG CÓ CHIẾN TRANH
Cố
ngoại Trưởng Dean Rusk nhận xét vào tháng 10 năm 1967 rằng, “Chính phủ đã đưa
ra một quyết định có chủ ý là không tạo ra tâm lý chiến tranh ở Hoa Kỳ…” bởi vì
nó “quá nguy hiểm cho đất nước Hoa Kỳ ” Johnson, Dean Rusk và các quan chức
khác đã lo sợ rằng cơn sốt chiến tranh sẽ làm suy yếu các chương trình nội địa
như Chương Trình Great Society và
làm gia tăng căng thẳng với Liên Xô. Nhưng rồi, Ông Rusk thừa nhận, “có thể đây là một sai lầm; có lẽ sẽ tốt hơn
nếu thực hiện các bước để xây dựng ý thức về một quốc gia đang có chiến tranh.”
Suốt
năm 1967, các cố vấn tại Bạch Ốc và các nhà lãnh đạo nước ngoài đã nhiều lần
thúc giục TT Johnson thay đổi hướng đi, nói với công chúng Mỹ lý do tại sao Hoa
Kỳ có mặt tại miền nam Việt Nam và những gì họ đang cố gắng đạt cho được. Nhưng
TT Johnson không thể tự mình làm điều đó, ngay cả khi ông ngày càng nhận ra những
hậu quả tai hại của sự im lặng của ông. “Nếu lịch sử buộc tội chúng ta vì sự kiện
Việt Nam,” TT Johnson thừa nhận vào mùa thu 1967, “thì do tiến hành một cuộc chiến mà không cố gắng khơi dậy lòng yêu nước.”
Trong trường hợp thiếu sự cổ vũ khởi
xướng của tổng thống, sự ủng hộ của công chúng Hoa kỳ đối với chiến tranh VN đã
giảm sút trong suốt năm 1967. Như các quan chức chính quyền từng lo sợ, sự suy yếu quyết tâm của Mỹ lại củng cố quyết
tâm kiên trì của Bắc Việt. Hà Nội rõ ràng đã từ chối mọi lời đề nghị đàm
phán hòa bình của Mỹ, CS Hà Nội dự đoán
rằng cuộc tấn công Tết Mậu Thân sắp tới sẽ phá hủy những gì còn lại của ý chí người
dân Hoa Kỳ.
Nói cách khác, việc công chúng
quay lưng lại với chiến tranh VN là điều không thể tránh khỏi; đúng hơn, đó là
kết quả của sự thất bại của các nhà hoạch định chính sách trong việc giải thích
và thuyết phục người dân Mỹ ủng hộ nó.
Nửa thế kỷ sau, hôm nay với việc
đất nước Hoa Kỳ đang vướng vào hai cuộc chiến tranh khác biệt, kéo dài và khả
năng những cuộc xung đột khác có thể bùng phát bất cứ lúc nào, Chiến Tranh VN là một bài học mà các nhà lãnh đạo hiện tại của
chúng ta nên ghi nhớ.
Mark
Moyar
ĐHL Dịch
thuật và tựa đề
Mark Moyar, giám đốc Trung tâm Lịch
sử Quân sự và Ngoại giao, là tác giả của cuốn sách “Oppose Any Foe: The Rise of
America’s Special Operations Forces” và “Triumph Forsaken: The Vietnam War,
1954-1965.”
Nguồn
Opinion | Was Vietnam
Winnable? - The New York Times (nytimes.com)
No comments:
Post a Comment