MỘT QUYẾT ĐỊNH ĐỊNH MỆNH CỦA TT NGUYỄN VĂN THIỆU
Trong hai tháng đầu tiên của năm 1975 một số dân biểu, nghị sĩ Hoa Kỳ đến Việt Nam quan sát tình hình. Đối diện với tình hình quân sự không được khả quan và trông chờ sự biểu quyết ngân quỹ phụ trội cho Việt Nam của quốc hội Hoa kỳ trong vài tháng tới, chánh phủ VNCH tiếp đón những nhà lập pháp đồng minh rất ân cần và nhiệt tình. Các dân biểu, nghị sĩ được khuyến khích đi quan sát tình hình quân sự, kinh tế, chính trị, để họ thông qua cho VNCH ngân khoản đã yêu cầu. Chánh phủ VNCH chờ đón cuộc viếng thăm với nhiều hy vọng và lạc quan.
Thượng nghị sĩ Sam Nunn đến VN trước, theo sau là dân biểu Paul N. “Pete” McCloskey và nghị sĩ Dewey Berlett. Tiếp đến là một phái đoàn hỗn hợp lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ. Bộ Tổng Tham Mưu thuyết trình cho những quan khách đầu tiên về tình hình chung của miền Nam. Trọng tâm của những buổi thuyết trình là tình trạng kiệt quệ về quân cụ, vũ khí của quân lực VNCH. Các nhà lập pháp Mỹ được thông báo tình trạng nguy hiểm sẽ xảy ra nếu số ngân khoản phụ trội 300 triệu mỹ kim không được chấp thuận và sự nguy hiểm đó xảy ra như các nhà lập pháp Hoa Kỳ đang chứng kiến. Một số dân biểu nghị sĩ đến VN lượt sau không được nghe thuyết trình, nhưng họ có đến BTTM quan sát số vũ khí tịch thu của CSBV đang được trưng bày ở đó.
TNS Sam Nunn (Dân Chủ Tb Georgia)
Chức vụ | |
---|---|
Chủ tịch Ủy ban Quân sự Thượng viện | |
Nhiệm kỳ | 3 tháng 1 năm 1987 – 3 tháng 1 năm 1995 8 năm, 0 ngày |
Quá trình hoạt động và quan điểm chính trị của các nhà lập pháp Mỹ viếng thăm VN hoàn toàn khác nhau. Có người ủng hộ VNCH; có người chống đối. Có người đến với một tinh thần cởi mở; có người đến với đầu óc thiên vị, định kiến có sẵn. Người thì lịch sự, khiêm nhường; một số khác thiếu sự tế nhị và lễ độ. Phần còn lại thì đến với sự thờ ơ, vô tư về một cuộc chiến. Nhưng dù có thành kiến hay thái độ nào trong thời gian có mặt ở VN, họ được chánh phủ chào đón nhiệt tình. Mọi người được khuyến khích quan sát, cho phép thăm viếng mọi nơi, tiếp xúc với tất cả. Họ có quyền đối thoại với bất cứ người nào họ muốn—từ một công chức cho đến những tổ chức, đảng phái đối lập với chính phủ.
Miền Nam, kể cả những người cộng sản, nghe ngóng và theo dõi cuộc viếng thăm của các nhà lập pháp Hoa Kỳ từng bước từng biến chuyển. Nhiều lời đồn lan truyền từ chuyến viếng thăm đó; hy vọng và thất vọng lên xuống theo từng giai đoạn, từng thay đổi. Những thành phần chống chánh phủ và muốn thấy một chánh phủ liên hiệp với cộng sản, hy vọng Hoa Kỳ làm áp lực với VNCH để chánh phủ nhân nhượng theo ý muốn của họ. Phía ôn hòa thì hi vọng các nhà lập pháp Mỹ suy xét lại tình hình miền Nam, cung cấp vũ khí, quân viện, để dân miền Nam tự bảo vệ và chống lại cuộc xâm lăng lộ liễu của cộng sản miền Bắc. Về phía cộng sản, dĩ nhiên, họ muốn thấy các nhà lập pháp Mỹ cắt đứt viện trợ để làm tê liệt khả năng chiến đấu của quân đội VNCH.
Nhưng nói một cách tổng quát, phái đoàn quốc hội Hoa Kỳ để lại một không khí thất vọng khi rời VN. Từ bầu không khí đó, nhiều lời đồn, tuyên truyền lan ra, làm hại cho tinh thần chiến đấu của quốc gia. Sau chuyến viếng thăm, giới lãnh đạo của chúng ta nghĩ dân Hoa Kỳ nhìn VNCH như một chánh phủ tham nhũng, đàn áp độc tài. Với những khủng hoảng về kinh tế và chính trị nội bộ đang xảy ra trong lãnh thổ họ, Hoa Kỳ không còn khả năng tiếp tục tham gia vào cuộc chiến. Vấn đề viện trợ thêm cho VN không còn nhiều hi vọng. Ngược lại, ngân sách viện trợ có thể bị cắt thêm vì Hoa Kỳ đang chuyển mục tiêu quân sự, chính trị của họ về các vấn đề Trung Đông.
Không ai thấy rõ vấn đề hơn tổng thống Thiệu. Khi người khách cuối cùng của quốc hội Hoa Kỳ rời VN, tổng thống Thiệu biết ngay VNCH không còn hi vọng gì về khoản tiền 300 triệu quân viện phụ cấp. Tổng thống Thiệu cũng biết quân viện cho VNCH trong tương lai sẽ ít hơn chứ không thể nhiều hơn—và tổng thống Thiệu dựa nhiều quyết định của ông vào những suy luận đó: những gì ông ta cương quyết từ chối hành động trong suốt hai năm qua, bây giờ ông phải làm. Tổng thống Thiệu quyết định tái phối trí quân đội dựa vào phần đất VNCH có thể bảo vệ được.
Cuộc tấn công của CSBV vào Ban Mê Thuột và những phản công vô hiệu của quân đoàn II có tác dụng vào tâm trí của tổng thống Thiệu—người duy nhất có quyết định tối hậu về chiến lược, chiến thuật của cuộc chiến. Khi quân đội đồng minh rời VN, quân đội VNCH phải đương đầu với một đối phương đông quân hơn. Phải phân tán mỏng các lực lượng trừ bị cuối cùng để cố gắng bảo vệ lãnh thổ, quân đội chúng ta không bao giờ có được ưu điểm về quân số. Thêm vào đó, những cắt giảm quân viện đã làm suy yếu khả năng chiến đấu và tinh thần của quân đội ngoài mặt trận—một sự kiện mà chúng ta từ chối chấp nhận. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, phải có sự thay đổi nếu chúng ta muốn VNCH tồn tại.
Trong vai trò cố vấn quân sự cho tổng thống, BTTM có lúc nghĩ quân đội VNCH có cơ may nếu lãnh thổ được phòng thủ tương xứng khả năng. Nhìn từ quan điểm quân sự, lối suy luận của BTTM không phải hoàn toàn vô lý—nhưng đi ngược lại chính sách “bảo vệ lãnh thổ bằng mọi giá” mà tổng thống Thiệu tuyên bố nhiều lần từ sau hiệp định Paris 1973 Với tình hình chiến sự nguy ngập—chỉ trong vòng hai tháng, chúng ta mất Phước Long và Ban Mê Thuột—và việc gì sẽ xảy ra nữa đây? Dư vị cay đắng của nhà lập pháp Mỹ để lại sau chuyến viếng thăm vẫn còn. Có lẽ trong một phút riêng tư nào đó, Tổng thống Thiệu bắt buộc phải suy nghĩ lại.
Với những quyết định có sẵn, ngày 11 tháng 3-1975—một ngày sau khi Ban Mê Thuột bị tấn công—tổng thống Thiệu mời thủ tướng Trần thiện Khiêm, cố vấn an ninh quốc gia, trung tướng Đặng văn Quang và tác giả đến dinh tổng thống để ăn sáng và bàn luận. Sau khi bữa ăn được dọn ra và các người hầu rời bàn, tổng thống Thiệu lấy ra một bản đồ nhỏ và bắt đầu cuộc thảo luận với những tường trình về tình hình chiến sự mà ba người khách đã hoàn toàn tường tận. Nói về tình hình chiến sự, tổng thống Thiệu đi ngay vào vấn đề với quyết định: “Với khả năng và lực lượng chúng ta đang có, chắc chắn chúng ta không thể bảo vệ được tất cả lãnh thổ chúng ta muốn bảo vệ.” Như vậy, chúng ta nên tái phối trí lực lượng và bảo vệ những vùng đông dân, trù phú, vì những vùng đất đó mới thật sự quan trọng.
Quyết định của tổng thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như tổng thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ chỉ thố lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng. Tổng thống Thiệu phác họa sơ những vùng ông nghĩ là quan trọng, gồm Vùng III và IV, miền duyên hải và thềm lục địa. Một vài phần đất quan trọng đang bị cộng sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi giá. Những vùng đất cần chiếm lại là nơi đông dân ,trù phú có giá trị về lâm sản, nông sản và kỹ nghệ, nhất là miền duyên hải, nơi thềm lục địa vừa được khám phá ra dầu hỏa. Cuối cùng, vùng đất mà chúng ta không thể nào để mất là Saigon, các tỉnh lân cận, và đồng bằng sông Cửu Long.
Tổng thống Thiệu bình thản tiếp tục độc thoại về chính trị địa lý của miền Nam, nhưng khi nói đến Vùng I và II, ông không vẻ lạc quan hay tự tin. Chỉ vào vùng cao nguyên trung phần, tổng thống Thiệu nói về Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại, vì tài nguyên và dân số của Ban Mê Thuột. Miền duyên hải của Vùng II cũng quan trọng với tiềm năng dầu hỏa chứa đựng ở thềm lục địa. Về Vùng I, ý kiến của tổng thống Thiệu là “giữ được phần nào thì giữ.” Ông phát họa kế hoạch phòng thủ ở Vùng I bằng những tuyến cắt ngang duyên hải từ bắc xuống nam. Nếu chúng ta có đủ lực lượng, tổng thống Thiệu nói, chúng ta sẽ giữ đến Huế hay Đà Nẵng. Nếu không được, chúng ta sẽ tái phối trí quân lại ở Chu Lai, ha thấp hơn là Tuy Hòa. Kế hoạch này, tổng thống Thiệu nói tiếp, cho chúng ta sắp đặt lại khả năng để có nhiều hy vọng giữ được những vùng đất quan trọng cho miền Nam trường tồn như một quốc gia vững mạnh.
Như vậy chỉ sau vài lời sơ thảo, tổng thống Thiệu đi đến một quyết định quan trọng. Hậu quả của quyết định đó như thế nào thì chưa biết được, nhưng nhìn từ quan điểm quân sự, quyết định của tổng thống Thiệu có nhiều vấn đề. Là cố vấn quân sự cho tổng thống, tác giả bắt buộc phải có ý kiến về quyết định của tổng thống Thiệu. Tác giả cho sự tái phối trí là cần thiết và có ý tưởng đó từ lâu Nhưng tác giả không tiện nói ra vì hai lý do: một, đề nghị tái phối trí quân sự đi ngược lại chính sách quốc gia; hai, lời đề nghị đó có thể bị hiểu lầm là thái độ chủ bại. Tác giả tránh phát biểu thêm là sự tái phối trí có tầm vóc qui mô như vậy đã quá trễ. Ngoài ra, tác giả thấy tổng thống Thiệu đã quyết định, nên ông không muốn nghe thêm những ý kiến ngược lại. Đã là tổng thống, ông Thiệu có thẩm quyền và trách nhiệm chỉ đạo cuộc chiến: ông phải biết ông đang làm gì.
Dù quyết định trên là một sự thay đổi toàn diện từ chiến lược “bảo vệ lãnh thổ bằng mọi giá” đang áp dụng sang “bảo vệ lãnh thổ theo khả năng”, quyết định của tổng thống Thiệu rất hợp lý trong tình thế đang xảy ra. Nếu phải chỉ trích quyết định đó, chúng ta chỉ có thể hỏi là tại sao tổng thống Thiệu phải chờ lâu như vậy để áp dụng kế hoạch tái phối trí. Chỉ hai năm sau ngày ngưng bắn, tình trạng quân sự phía VNCH xuống dốc một cách thê thảm. Vào buổi sáng hôm đó, tổng thống Thiệu không giải thích hay đề cập đến lý do nào đưa ông đến những quyết định ông trình bày; quyết định của ông hình như phản ảnh những thực tế đang diễn ra. Từ trước, tổng thống Thiệu hy vọng chúng ta có khả năng bảo vệ những tiền đồn và địa giới thưa thớt. Và nếu cộng sản Bắc Việt vi phạm hiệp ước ngưng bắn, Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến và thế giới chắc chắn biết ai là kẻ gây hấn. Nếu CSBV tiếp tục vi phạm một cách trắng trợn, tổng thống Thiệu hy vọng –hy vọng vào những hứa hẹn—Hoa kỳ sẽ có lý do trừng phạt Bắc Việt mạnh mẽ như tổng thống Nixon đã hứa với tổng thống Thiệu.
Trong hai năm, cộng sản gia tăng vi phạm và cường độ của những sự vi phạm, để dò xét thái độ của Hoa Kỳ, coi họ có sẵn sàng trả đũa không. Lúc tổng thống Nixon chưa từ chức, thỉnh thoảng ông có cảnh giác CSBV về những vi phạm của họ. Nhưng sau khi tổng thống Nixon từ chức vào ngày 8 tháng 8 năm 1974, những hứa hẹn “phản ứng mạnh mẽ” của Hoa Kỳ chỉ là những lời hứa suông. Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa kỳ không có một phản ứng nào. Kế tiếp là thái độ bất lợi của phái đoàn quốc hội Hoa Kỳ trong chuyến viếng thăm. Từ thái độ đó, VNCH không còn hy vọng nào. Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục, và biểu quyết viện trợ để VNCH tiếp đánh là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa Kỳ, cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc.
cuộc triệt thoái quân khu II làm một quân đoàn mất trắng trọn bộ
Tổng thống Thiệu không còn một chọn lựa nào để cứu vãn tình thế trừ quyết định tái phối trí quân đội như đã nói trên—còn nước còn tát. Nhưng quyết định của ông quá trễ. Kế hoạch tái phối trí lẽ ra phải được thực hiện từ giữa năm 1974. Hay ít nhất phải thực hiện ngay khi tổng thống Nixon từ chức Là tác giả của kế hoạch Việt Nam Hóa và Hiệp Định Ba Lê, tổng thống Nixon là người Mỹ duy nhất có trách nhiệm tâm lý để bảo vệ bản văn kiện đình chiến. Nixon là người đáng tin cậy,có can đảm xử dụng những biện pháp mạnh khi cần thiết. Chậm nhất, kế hoạch tái phối trí quân sự theo khả năng của quân đội phải được thực hiện ngay lúc đó.
Dĩ nhiên cộng sản sẽ sẵn sàng tiến chiếm những vùng đất chúng ta không có khả năng bảo vệ. Hai bên sẽ thương lượng với nhau một ranh giới mới. Nhưng chúng ta có được ưu thế trong chiến lược này: lãnh thổ được thu hẹp lại và nội tình an ninh hơn. Kế hoạch tái phối trí tương tự như một hiệp định Geneve 1954 thứ hai: một ranh tuyến mới, quân đội hai bên tập hợp lại vùng riêng biệt của họ…hai lãnh thổ rõ ràng chứ không là vùng ‘da beo” lẫn lộn. Chiến lược này lý tưởng cho sự tồn tại của VNCH. Nhưng dù ta có theo chiến lược này, chưa chắc người cộng sản chấp nhận. Nếu họ đã ký hiệp định Geneve 1954 rồi, và cho đó là một sự lầm lẫn, thì chắc gì họ chấp nhận giải pháp này lần nữa? Không thể nào họ hy sinh xương máu trong 20 năm mà không được gì.
Quyết định tái phối trí đã quá trễ sau khi Ban Mê Thuột mất. Cộng Sản thắng liền hai trận, và sau hai trận, với sự hao tổn của VNCH, họ có luôn thế thượng phong về quân số. Phía bên ta, đã trải quân ra quá mỏng, chúng ta không thể nào rút quân một nơi để lấp vào chỗ khác mà không bị tấn công và đe dọa bởi số quân đông gấp hai của địch.
Một vấn nạn khác chúng ta đối diện là thường dân và thân nhân binh sĩ: di tản hay không di tản những người này cũng là một yếu tố thành công hay thất bại trong cuộc chiến. Không nhà lãnh đạo nào với một lương tâm có thể bỏ dân mình vào tay địch. Nhưng trong trường hợp phải chọn lựa, người lãnh tụ hy sinh dân để giữ quân. Kinh nghiệm cho thấy người dân miền Nam tránh xa vùng kiểm soát của cộng sản nếu họ có cơ hội chọn lựa. Người dân trong nghĩa này cũng là thân nhân binh sĩ—những người họ chiến đấu để bảo vệ và những người nâng cao tinh thần họ. Chúng ta không thể tách rời binh sĩ và thân nhân ra. Tinh thần khắng khít trong truyền thống gia đình VN khó cho chúng ta tách họ ra dù trong một thời gian ngắn.
Nghĩ lại việc đã qua, câu hỏi là miền Nam có sống sót nếu chúng ta không áp dụng kế hoạch tái phối trí lực lượng quân sự hay không. Bây giờ nói thì sự đã rồi, nhưng tác giả tin miền Nam còn nhiều cơ hội hơn nếu không thực hiện tái phối trí. Tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH và nhân dân bị hủy diệt là kết quả trực tiếp của kế hoạch tái phối trí. Không có kế hoạch đó, có lẽ quân đội chúng ta không tan rã nhanh như vậy. Chúng ta có thể mất đi một phần của sư đoàn 23BB, nhưng tất cả đơn vị khác vẫn còn nguyên vẹn. Dù lấy được Ban Mê Thuột cộng quân vẫn phải ngừng lại, suy tính kỹ trước khi mở một mặt trận mới ở Vùng II. Vùng II vẫn còn sư đoàn 22BB, công thêm một lực lượng tương đương với 2 sư đoàn bộ binh, và hai sư đoàn không quân. Vùng II có đủ quân nhu và tiếp liệu để chiến đấu đến hết mùa khô. Không có kế hoạch tái phối trí, tác giả không nghĩ cộng sản có thể thành công, đánh nhanh và chiếm nhiều đất được như họ đã làm ở Vùng I. Tình hình quân sự nhân lực của VNCH vẫn gặp các khó khăn dai dẳng như trước khi có quyết định tái phối trí: thiếu thốn về quân viện; không còn nhân lực để lập thêm những đơn vị tổng trừ bị. Nhưng ít ra quân đội VNCH sẽ không tan rã nhanh chóng như khi quyết định tái phối trí được thực hiện.
Đó là cái nhìn về phương diện quân sự trong giai đoạn ngắn hạn.Sau Ban Mê Thuột tác giả nghĩ CSBV sẽ làm áp lực để có một chính phủ liên hiệp; và tổng thống Thiệu có thể chấp nhận. Nhưng dù chuyện đó có xảy ra, đó chỉ là một hoàn cảnh hòa hoãn tạm bợ nhất thời: cộng sản sẽ tiếp tục lấy thêm đất qua chiến thắng quân sự để bắt VNCH nhượng bộ thêm về chính trị. Liệu VNCH có chịu nổi những áp lực đó trong một thời gian dài hay không? Tác giả nghĩ câu trả lời sẽ tùy thuộc vào quân viện của Hoa Kỳ cung cấp cho VNCH. Một sự thật không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975 nếu không nhận được số quân viện phụ trội. Và một quân đội sẽ không thể nào chiến đấu nếu không có những trang bị cần thiết để chiến đấu.
Cao văn Viên
ĐHL trích 16/1/2022
sách
Cao văn Viên. Những Ngày Cuối Cùng của VNCH. Nhà Sách Văn Bút 2003, trang 125-136.
No comments:
Post a Comment