...Khi tôi về nghẹn ngào trong nắng
Tưởng rằng mẹ tôi rưng rưng đứng đón con vềNào ngờ mẹ tôi ra đi bên kia cuộc đời
Không lời từ ly cuối cùng trước khi phân kỳ... (Đường xưa Lối Cũ)
bài viết này xin gửi về bà con Phường Đệ Tứ QT xa xưa... ĐHL
CON ĐƯỜNG NGỰ là đường nào?Nó bắt đầu từ đường Lê v Duyệt rẽ thẳng góc đâm về huớng An Tiêm . Khởi đầu là cái quán của mạ tôi . Cái quán trước đường Cửa Hậu là cái quán nhỏ từ đời mệ ngoại sang qua lại cho mạ tôi bán ở đây . Quán sát cái giếng nằm lọt vào đất ông Xạ Lịch tức là anh chú bác với mệ ngoại tôi. Quán nhỏ mà đắt khách vì trong xóm cần gì là có ngay. Từ cái kẹo, chai bia, ly rượu, kim chỉ , giấy tiền vàng bạc, vở sách bút chì ...thuốc hút, đá lạnh nước chanh , mỳ xíu ban sáng ...tôi kể không hết. Quán trước cửa Lao Xá nên hay có lính coi thành ra mua. Những lần thăm nuôi tù nhân trong thành quán mạ tôi cũng bán được một mớ.
Người kể chuyện nhớ lại, chú Vân mỗi khi lái xe về là ghé quán uống ly rượu thuốc trước khi về nhà. Nhà Chú thím Vân ở xa, sau xóm nơi ngó ra cánh đồng lúa An Tiêm và hạnh Hoa. Nhà chú ở một bên đường Ngự, đối diện với nhà Ông Lâm tức là ba chú Tùng và chị Dao ...
Sau lưng là trường Ấp tân Sinh mới được xây một dãy dài.
XÓm Cửa Hậu càng lúc càng đông. Đồng bào tản cư tránh chiến tranh, vợ con lính càng lên nhiều và xây liên tục nối xa tận ngoài đồng kể không hết .
Sau năm 1967 có thêm Đại Đội Chiêu Hồi đóng gần nhà Ông Nguyễn tri Duyến, ông thân của các chị Đoàn, chị Liễu nên càng vui thêm.
Qua vài bài viết từ trước tới nay, người viết cố 'moi tìm' trong tim óc những gì mình nhớ lại thôn xóm năm xưa để bà con "những người còn lại" đôi lúc được thả hồn về "đường xưa lối cũ"...
Giờ để tiếp nối, mời bạn đọc và những người quen biết cũ 'đi chuyến tàu kỷ niệm', hình dung lại xóm Cửa Hậu xa xưa trong bài HAI BÊN CON ĐƯỜNG NGỰ...
Giờ để tiếp nối, mời bạn đọc và những người quen biết cũ 'đi chuyến tàu kỷ niệm', hình dung lại xóm Cửa Hậu xa xưa trong bài HAI BÊN CON ĐƯỜNG NGỰ...
***
TRÊN TRANG BLOG tôi viết đến đây chắc bạn đọc ít ai biết. Đó là con đường gắn liền với tôi lúc sinh ra lớn dần lên một thời niên thiếu trước Cửa Lao Xá mà nay đã thực sự mất tên, và bị lấp mất bởi nhà cửa người ta xây lên trên. Đã thế con đường Lê văn Duyệt cũng vô cớ bị xóa tên. Theo sử thì tả quân Lê văn Duyệt cũng là một võ tướng thời xưa công tội là chuyện của nhà Nguyễn , đến đời Thiệu Trị cũng được phục danh và cái Lăng Ông to lớn ai ở Sài Gòn mà chẳng ghé một lần trong đời.
Đường Phan đình Phùng đã có trong lịch sử thành phố QT xa xưa ròi, việc tréo ngoe chồng lên con đường Lê v Duyệt thì không hay chút nào.
hình người viết chụp cho cậu Võ Cư năm 1969, ông đang đứng chính ngả ba Lê văn Duyệt và lối vô Cổng Thành Cửa Hậu (đã bị lấp sau 1967)- ngó thẳng ra con ĐƯỜNG NGỰ--trên cổng thành phía cánh phải chúng ta thấy có một mái che tồn nhô lên, mấy chú bảo an đêm nào cũng gác đó , lâu lâu đánh kẻng đổi gác, vài ba tiếng rời rạc trong đêm trường ...
*
Bây giờ tôi lại kể về con ĐƯỜNG NGỰ. Con đường này chính ngay Cửa Hậu ngó ra thẳng về An Tiêm. Lúc tôi còn nhỏ, mệ tôi thuờng kể là con đường vua Ngự nên gọi là thế nhưng trong nhà Ngoại tôi không biết vua nào. Chẳng qua là truyền miệng cho nhau. Cho đến gần đây, ông Nguyễn lý Tưởng có giải thích thêm thời vua Hàm Nghi chạy ra Tân SỞ 1884 đặt tên để ghi nhớ vua Hàm Nghi khi thất thủ kinh thành 1884 có di chuyển qua đây. Dân quân ở đây đắp thành một con đường đất lớn để quan quân di chuyển. Như vậy về thời gian cho đến 1972 lớn lên cạnh con đường lịch sử hơn cả trăm năm...
Ngày đó, bắt đầu con đường này là cái giếng lớn được xây từ thời Pháp. Cái giếng này thoạt đầu có xây nắp đậy đàng hoàng , một nửa mở ra hình bán nguyệt. Nước dùng cho cả xóm. Dì tôi, tên Thừa hay Lý ngày nào cũng đem hai anh em tôi , xin lỗi "ở truồng" kỳ cọ tắm cho cháu. Cậu Võ Bình (trung úy Biệt Kích chồng của mợ Trần thị Kim Thược Gio Linh) thời đó là lứa cùng anh Liệu anh Thăng a Sỏ con ô Cai Ngữ, khi nào cũng thi gan lấy hai tay chống vào thành giếng thả cả người xuống và đu lên. Đến khi dân đông, giếng cũng không đủ nước, nhất là mùa tháng hạ phải vét. Mùa khác khi nước sâu, thả móc tìm gàu bị đứt lại được luôn "gàu người khác " mừng như thể tìm được 'tàu Titanic" bị chìm tôi đem về "làm của" luôn. Cả xóm nước uống phải gánh tận thôn Hạnh Hoa. Nơi đó có cái giếng nước uống trong veo, thơm tho. Nhắc đến nước uống dưới giếng Hạnh Hoa tôi nhớ hình ảnh anh Báu. Anh ở tận xóm ông Đội Lạp (tức là ông thân của hai anh Tùng anh Dũng và Ngô thị Sáu gần xóm Tống thị Nhạn phía trên), ngày nào cũng đi tận dưới xa gánh nước cho mẹ. Đàn ông con trai mà anh gánh "dẻo queo".
Cạnh cái giếng là cái quán tạp hóa của mạ tôi. Quán này mệ ngoại tôi đi tu giao lại cho mạ tôi. Lính và nhân viên coi tù trong Cửa Lao Xá (hay Cửa Hậu) hay ra mua hàng. Người tù khi đi làm tạp dịch về cũng được du di cho ghé nhanh quán mạ tôi mua vài thứ. Nhờ mấy chú coi tù hay ra mua hàng ở quán mạ tôi nên nhà tôi bán hàng khá đắt. Có chú Tạc nói giọng Sài gòn làm trong Lao Xá rất lâu rất thân với nhà ngoại tôi. Chú rảnh là ra quán mạ tôi uống rượu thuốc hay nhậu lai rai. Mấy chú Bảo An trong thành ít khi ra quán ngoại trừ mấy chú mang súng dẫn đoàn tù đi làm tạp dịch ngoài tỉnh về. Cái quán này là đầu đường Ngự nằm vào đất của nhà ông Xạ Lịch (Lê ái Lịch), bà ngoại tôi kêu là anh (con chú bác). Ông Lịch theo công giáo với vợ. Ông có mấy cậu là Lê ái Phương và anh cả là Lê ái Long ở xa, còn có dì Cúc...Nhà ông Lịch thời này tuy không giàu bằng nhà ông Lê ái Thanh, anh của ông Lịch có nhà cạnh bên. Nhà ông Lê ái Thanh ông thân của cậu Lê ái Minh có xe đò chạy QT- Huế (tên là Thiện Thành). Cậu Long con ông Lịch tuy là công chức nhưng cũng "tậu" được một chiếc xe Gobel , '"còm măng" từ bên Ý gửi qua. Ngày chiếc gobel về tới, cả xóm chạy tới coi. Chiếc xe mới được đựng trong một cái thùng gỗ bằng ván to lớn. Sau khi dùng 'xà beng' cạy ván ra, chiếc xe GOBEL mới toanh sừng sững dứng ở trong trông thật "hách". Thời gian đó chưa có honda, ngoài trừ mobilette, lambretta, hay velo solex.
Ngày đó, bắt đầu con đường này là cái giếng lớn được xây từ thời Pháp. Cái giếng này thoạt đầu có xây nắp đậy đàng hoàng , một nửa mở ra hình bán nguyệt. Nước dùng cho cả xóm. Dì tôi, tên Thừa hay Lý ngày nào cũng đem hai anh em tôi , xin lỗi "ở truồng" kỳ cọ tắm cho cháu. Cậu Võ Bình (trung úy Biệt Kích chồng của mợ Trần thị Kim Thược Gio Linh) thời đó là lứa cùng anh Liệu anh Thăng a Sỏ con ô Cai Ngữ, khi nào cũng thi gan lấy hai tay chống vào thành giếng thả cả người xuống và đu lên. Đến khi dân đông, giếng cũng không đủ nước, nhất là mùa tháng hạ phải vét. Mùa khác khi nước sâu, thả móc tìm gàu bị đứt lại được luôn "gàu người khác " mừng như thể tìm được 'tàu Titanic" bị chìm tôi đem về "làm của" luôn. Cả xóm nước uống phải gánh tận thôn Hạnh Hoa. Nơi đó có cái giếng nước uống trong veo, thơm tho. Nhắc đến nước uống dưới giếng Hạnh Hoa tôi nhớ hình ảnh anh Báu. Anh ở tận xóm ông Đội Lạp (tức là ông thân của hai anh Tùng anh Dũng và Ngô thị Sáu gần xóm Tống thị Nhạn phía trên), ngày nào cũng đi tận dưới xa gánh nước cho mẹ. Đàn ông con trai mà anh gánh "dẻo queo".
Đầu hết của đường Ngự phía bên kia là nhà của chú Huỳnh Chốn, ông thân sinh của Huỳnh Rô, và Huỳnh Toàn, số nhà là 65 Lê v Duyệt. Nhà của chú Huỳnh Chốn là chủ xe Phước Toàn tên của hai đứa em của Rô. Hình như Huỳnh Rô có đúa em gái tên Liên nữa. Trước khi nhà Huỳnh Rô ở, đây là nhà của chú Nguyễn văn Ba, cha của đứa bạn thân Nguyễn văn BỐn. Thời này nhà bạn tôi đã có xe đò chạy Qt -Huế. có cho chú Kỳ thuê làm quán may. Cái quán ngó ra là cái cống thông ra hồ của Thành CỔ. TÔi nhớ chú Kỳ rất vui tính và nghịch. Chú ngồi may vậy mà lấy tờ bạc cột một đầu kéo ra giữa con đường nhựa, còn đầu kia tôi còn nhớ buộc vào cái máy may singer. Sau khi "ngụy trang" sợi chỉ khách đi ngoài đường cúi xuống lượm bị chú Kỳ đạp lẹ cái máy may, sợi chỉ kéo phăng tờ bạc lui làm người khách "tiu nghỉu" , trong quán chú Kỳ và tụi tôi cười sướng cái bụng. Người lượm bạc "trật" chỉ biết cúi đầu đi nhanh , chẳng dám cự nự một lời !Đêm về ngay đầu đường Ngự này, tức là cái cống và cái cột đèn của con đường Lê v Duyệt trước cổng Thành, tụi tôi chơi đá lon,' hô la manh' với nhau.
Bắt đầu đi sâu vào là nhà bà ngoại tôi hay nhà tôi lớn lên bên các cậu tôi là Võ Cư ,Bé , Phương , Hoa , Ba , Bình...lớn lên các cậu tôi đi Trường Thiếu sinh Quân hay binh nghiệp khác. Cậu đầu Võ Cư trước là trung đoàn 95 VM , sau này về lại bên Cộng Hòa là công an. Có thời bên VM cho người đàn bà về lại 'móc nôi' nhưng bất thành. 1968 nhà sập một nửa nhà dưới cái nhà ngói trên hư hại ít ỏi. Tôi tuy là đứa cháu ngoại nhưng là thắp huơng khói sớm tối trong nhà ngoại tôi. Ông ngoại tôi mất sớm từ 1949, sau này bà ngoại tôi lại làm bà vải tận chùa SẮC TỨ bên Ái Tử thỉnh thoảng có việc gì tôi mới qua chở bà về. Đối diện nhà Ngoại tôi tức là bên kia con đuòng là nhà Ôn Vui và mệ Dịu. Nhà Ôn Vui có hai cây khế, một cây chua một cây ngọt. Cây khế ngọt yếu ớt ít trái hơn. Cây khế chua to lớn rậm rạp phủ một nhánh qua sân nhà Ông Nguyễn trọng Thệ. Nhà mệ Dịu làm nghề thợ may trong nhà. O Lài là con gái đầu. Ôn mệ Vui có người con trai tên Hiền đi ăn học đâu xa thỉnh thoảng mới về. O Lài là chị lớn đi tu đạo sau về nhà, em o Lài tên Diệm xấp xỉ tuổi tôi. Bên lưng nhà mệ Dịu là nhà O Hoài mẹ chị Huờng và Hoàn. Còn người con gái nữa là Hòa cũng. xấp xỉ tuổi tôi. Tội nghiệp 2 con trai o Hoài, thằng Gioan thằng Huởng bị VC pháo vô thành, lạc ra ngoài khoảng 1967 chết oan mất thằng Gioan. Tuổi nhỏ anh em chúng tôi trong nhà ngoại cùng trang lứa như mấy nàng hồi đó là Diệm, Hòa bốc chẵn lẽ ăn thua sợi thun (địu) hay 'cò cò' tức còn gọi là "chơi thiên trời" vui vẻ hồn nhiên đúng là thời con nít ...
Theo con đuòng này tiếp nhà ôn Vui mệ Dịu là nhà Ông Nguyễn trọng Thệ như vừa nói. Ông Thệ là ông thân của các chú Nguyễn trọng Kỳ- Khôi -Tống -Toàn. Anh Nguyễn trọng Toàn sau này là chồng của chị Thí. Ông Thệ có cái tính rất sạch. Sáng chiều chi cũng thấy ông cầm cái chủi cán dài quét quét trước cươi (sân). Ông Thệ hình như là người Ngô Xá. Rảnh là ông thay áo quần lên phố thăm ông Thầy Thoàn trên phố(thân sinh tướng Hoàng xuân Lãm). Nhà ông Thệ trước đây mua lại của chú Võ Vọng. chú Vọng hay đi chiếc mobilette chạy lẹt đẹt. Sau này chú VỌng về ở gần nhà mệ Cửu Mình là mệ cậu Hiếu ở kế bên trụ sở phuòng Đệ Tứ - hay gần kiệt xuống nhà bạn Nguyễn Văn (nay ở Nam Cali) và Nguyễn Kiệt (mất tại Đông Hà).
Sau 1967, nhà này ông Thệ bán cho chú Huỳnh Chốn, ba của Huỳnh văn Rô. Còn nhà Huỳnh Rô số 65 trước đường thì lại bán cho mẹ và dì tôi . Nhưng nhà tôi số 65 trước đường ở một năm thì bị cháy vì vụ Mậu Thân 1968. Sau đó nhà tôi phải lên thôn Đệ Nhất làm ăn.
Tiếp tục con đường Ngự, nối tiếp nhà Ngoại tôi là nhà của bác Hà công Kinh tức là ông thân của Hà thị bích Huờng (nay ở Đà Nẵng). Thời tôi còn nhỏ, đây là nhà của ông Lâm, thân sinh của võ sĩ Bách Tùng Lâm; tức chú Tùng lấy tên ba người: ông Lâm, Bách là anh của chú Tùng. Ông Lâm có võ gia truyền, sau này chú Tùng mới là võ sĩ nổi tiếng. Chú Tùng chú Bách cùng lứa với hai cậu Võ Phương và Võ Hoa tôi. Một thời 1960 nhà của ông Lâm còn là nhà tranh, có đụn rơm và buị tre. Tôi còn nhớ trong Sài gòn, ra làm một cuốn phim , đóng cảnh thanh niên chiến đấu. Có thể vào thời Ấp chiến Lược thịnh hành. Đêm đó thật vui, có cả anh Nguyễn Bích( anh rễ Mỹ tín , chồng chị Lợi ) cùng với các thanh niên trong thôn được dựng cảnh thanh niên chiến đấu , bận đồ đen cầm đuốc lập lòe chạy cạnh đống rơm trước máy quay phim thật vui. Sau này nhà ông Lâm bán lại cho nhà Hà thị bích Huờng. Ba của Huờng là bác Kinh làm kiều lộ hay là công chánh tỉnh QT. Bên kia nhà ông Thệ thì bán cho nhà chú Huỳnh Chốn. Cả hai ông Lâm và ông Thệ không đi đâu xa mà ra mua đất phía sau ruộng tức là tiếp tục con đường Ngự để lập vườn vui thú điền viên.
ĐƯỜNG NGỰ HÔM NAY CHỈ CÒN DẤU TÍCH PHAI MỜ
Ôi thời gian, chỉ là kỷ niệm xa dần cho những ai ra đi nhưng còn thương về quá khứ
Bao nhiêu hình ảnh chợt ập về cho người viết bài này. Chính đây là đoạn đường mà người viết thời còn bé bỏng hay men theo con con đường này đi về tận bờ sông Vĩnh Định rồi phanh mấy vạt dưa quả của người làng An Tiêm trồng ven bờ để tìm ra năm ba con rế trong mùa hè nghỉ học. Thuở đó gờ đất này là một con bờ đất cao chia cánh đồng lúa ra hai. Thỉnh thoảng mới có một cái cống đất thông nước ruộng cho cánh đồng. Giờ đây đoạn đường phía khởi đầu con đường đã không còn. May thay phía cuối cùng là ruộng không ai giành đất xây dựng mới còn một ít dấu vết.
Có còn hơn không; cám ơn bạn đọc Kim Nguyễn một lần nữa, đã hào sảng thời gian không ngại khó đi ra ruộng tìm và chụp cho một tấm hình minh chứng cho một dấu vết lịch sử của thành phố Quảng Trị năm xưa.
*
Con Đường Ngự ngày đó dài lắm, chạy thẳng về tận bờ sông Vĩnh Định có làng An Tiêm. Như người viết đã trình bày, lúc sinh ra thì đã thấy nó rồi. Thời trước 1963, từ đường Lê v Duyệt đi ra khỏi nhà ông Lâm là gần hết nhà, hai bên toàn ruộng. Hồi đó, mùa mới cấy lúa tôi hay cùng chị Dao con Ông Lâm ra bắt cua đồng tức con đam, ốc bưu (bươu) đi vài giờ là có cả gàu đầy.
Mùa khô thì cậu cháu chúng tôi ra cánh đồng khô gốc rạ thả diều chơi. Diều các cậu tôi chơi là diều 'người lớn'. Nó có hai cánh rộng, mang cả 3 ống sáo trên lưng. Cột dây lèo rất khó. Cánh ruộng phải rộng để căng dây , đợi gió là phóng lên . Con diều không phải có cái đuôi như con nít chơi, mà nó đựng gió bằng hai cánh rộng và bung lên trời. Dây diều bằng dây gai chắc và to mua từng cuộn lớn trên tiệm Ông Kỳ trên phố mới có. TÔi không cầm dây nổi, chỉ có người lớn mạnh tay mới kéo được con diều ăn gió lên cao. Diều này bay cao hơn trăm mét. Cuộn dây gai cứ buông ra mãi, nghiêng nghiêng cao lên trời, diều chao qua lại văng vẳng tiếng sáo o o nghe thật thích. Tuy là dây gai đi mua nhưng cũng lúc diều quá no gió nên đứt dây. Mỗi lần đứt dây, nó bay về tận thôn Hạnh Hoa, cả nhà phải tất tả chạy đi kiếm lại. Cậu Võ Cư tôi từng mang mấy ống sáo diều từ Gio Linh vào do ô cậu làm CA ngoài đó. Mấy ống sáo đó, cậu tôi kể phải mua từ môt người làm sáo diều mới có. Tiện thể tôi kể luôn hình dáng nó là cái ống lồ ô vừa, vót sạch cật, hai đầu có bít lại , mỗi đầu có đường rãnh thông gió theo kiểu lưỡi gà . Ba ống sáo , hết cật thì nhẹ gắn chồng lên nhau cùng được nằm trên lưng con diều lớn . Lên không trung gió hút vào miệng phễu hai đầu sáo , thế là tạo thành âm thanh kêu "o..o " mãi không thôi.
Mùa khô thì cậu cháu chúng tôi ra cánh đồng khô gốc rạ thả diều chơi. Diều các cậu tôi chơi là diều 'người lớn'. Nó có hai cánh rộng, mang cả 3 ống sáo trên lưng. Cột dây lèo rất khó. Cánh ruộng phải rộng để căng dây , đợi gió là phóng lên . Con diều không phải có cái đuôi như con nít chơi, mà nó đựng gió bằng hai cánh rộng và bung lên trời. Dây diều bằng dây gai chắc và to mua từng cuộn lớn trên tiệm Ông Kỳ trên phố mới có. TÔi không cầm dây nổi, chỉ có người lớn mạnh tay mới kéo được con diều ăn gió lên cao. Diều này bay cao hơn trăm mét. Cuộn dây gai cứ buông ra mãi, nghiêng nghiêng cao lên trời, diều chao qua lại văng vẳng tiếng sáo o o nghe thật thích. Tuy là dây gai đi mua nhưng cũng lúc diều quá no gió nên đứt dây. Mỗi lần đứt dây, nó bay về tận thôn Hạnh Hoa, cả nhà phải tất tả chạy đi kiếm lại. Cậu Võ Cư tôi từng mang mấy ống sáo diều từ Gio Linh vào do ô cậu làm CA ngoài đó. Mấy ống sáo đó, cậu tôi kể phải mua từ môt người làm sáo diều mới có. Tiện thể tôi kể luôn hình dáng nó là cái ống lồ ô vừa, vót sạch cật, hai đầu có bít lại , mỗi đầu có đường rãnh thông gió theo kiểu lưỡi gà . Ba ống sáo , hết cật thì nhẹ gắn chồng lên nhau cùng được nằm trên lưng con diều lớn . Lên không trung gió hút vào miệng phễu hai đầu sáo , thế là tạo thành âm thanh kêu "o..o " mãi không thôi.
TÔi lại lan man nữa ! tiếp theo nhà của Hà thị bích Huờng là nhà ông Nguyễn tri Duyến. Ông Duyến là ông thân của chị Đoàn, chị Liễu và đúa em trai cùng một em gái nữa. Nhà chị Liễu có hai con chó trắng và đen làm tôi khi nào đi ngang cũng "ngán". Con chó đen nuôi sau to lớn hơn , sủa vang nhưng không "độc" bằng con chó trắng. Con chó trắng chờ tụi tôi đi ngang qua là im lặng chạy vụt ra không sủa tiếng nào để cho mình đề phòng mới đáng sợ. Phía bên tê đường , sau cái nhà ngói của Rô là nhà của chú Phan Hưu cũng cảnh sát như cậu Cư tôi. Đất nhà chú Hưu đang ở là cái hồ rộng quá đến sau nương của nhà bác Dô bên xóm kia. Phía bên kia hồ thì xe kéo của MACV từ trường NH về đổ rác. Phía cạnh hồ sát con đường Ngự này thì người ta lấy đất cày đổ thêm tạm làm cái nền cho nhà chú Hưu. Trước khi có nhà Chú, ngang đây có bụi tre càn không cao không rậm nhưng mỗi khi trời tối có việc đi sau xóm về nhà ngang đây tôi đều 'ngán' vì sợ "ma". Nhắc lại bụi tre này, tôi lại nhớ Mệ Thuần tức là mẹ của ông Thuần mệ mắc bệnh lẫn đêm đêm mệ cứ cầm cái đèn dầu lò mò đi ra tận bụi tre này. Thời này tôi và mấy đứa bạn cứ cho là mệ bị "ma nhập ". Trước kia tôi hay câu cặm ở cái hồ này. Những buị tre gần hồ chiều chiều có tiếng con chim chài màu xanh đậu chờ mồi. Đất đai phủ dần hồ thay vào đó là nền nhà chú Hưu Trong xóm chỉ có nhà chú Hưu là khổ nhất. Vợ chú sinh xong đứa trai cuối thì thím bị tâm thần. Cúc là con gái đầu , ngang tuổi tôi , thay mặt mẹ tảo tần phụ ba nuôi bầy em. Trưa hè, lúc lúc tôi lại nghe tiếng thím nói và la mắng những gì không ai hiểu nổi? Tuy thế, thím không làm phiền ai, chỉ cái bệnh là nói những lời độc thoại đầy vẻ bất mãn. Hai đứa trai đầu của chú Trung và Phùng hay bên phía nhà Hà thị Bích Huờng có mấy em trai- tôi xin lỗi- hồi này đặt cái tên là... "Chó Nậy... Chó Con". Nhà chú Chốn, thì có Cu Rô...thời này mấy đứa con nít hay có cái tên "cu ..." nằm đầu mới kỳ. Tỷ như em trai thằng Nguyễn v Bốn, bạn tôi có thằng "cu Đen" bạn thằng Đen có Cu Vân tức con Chú Vân vậy!
Con trai có tục danh, tên "cu " đi trước
-Ê mi đi mô rứa Cu...?
-Ê mi đi mô rứa Cu...?
Gọi mãi như rứa có lúc cái tên thật của mình cũng bị quên luôn? Tôi không biết sao trong xóm tôi lại nhiều "tên Cu " lắm vậy?
Thành Cổ còn đâu trơ vách đá
lối xưa ngơ ngác dọ lối về ?
Trước hiên nhà ngoại tôi sau 1968 có một bàn ping pong khá lớn. Cho thuê giờ kiếm thêm "mắm muối". Khách trong xóm ngoài các bậc cha chú như chú Hưu ,đánh rất hay là đối thủ với cậu tôi. Khách chơi PingPong sau này đa phần là con nít như mấy "thằng cu" tôi kể trên. Giờ hỏi lại, mấy em này chắc khó quên hình ảnh cái bàn ping- pong ngày đó.lối xưa ngơ ngác dọ lối về ?
Tên tôi thì gặp may, ngoài chữ "sù sựa" do chú Trương Đá đặt cho tôi vào năm 1960, nên tôi thoát nạn phải mang tên "Cu Phúc". Tại sao chú Trương Đá đặt tôi cái tên "sù sựa"? Tôi nhớ rất rõ, khoảng đầu 1960 lúc mẹ tôi cho em gái tôi là Đinh thị Hiệp bú, chú Đá lúc đó tới nhà thăm bạn là cậu Võ Hoa. Khi chú thấy Đinh thị Hiệp khoảng chưa đầy năm tuổi đang bị ngợp sữa, chú hỏi "cái chi rứa phúc ? Tôi lúc nhỏ nói chớt nổi tiếng trong xóm vì hai cái răng cửa bị sún hai ba năm không mọc, trả lời lắp bắp , "dạ dạ ...cái sù sựa" tức là sữa! Từ đó chú Trương Đá đặt cái biệt danh "Sù Sựa" đó cho tôi. Suốt thòi kỳ "sún răng" này mấy đứa bạn như Trương SỪng, Trần Tài, nhất là Nguyễn văn Bốn (còn gọi là thằng Vạy) gọi riết tên tôi là "sù sựa ". Chúng gọi mãi cái tên đó đến nổi tụi nó quên mất tên thật của tôi luôn. Sau này tôi cũng quen, không cự nự gì cả; cứ cho là tên mình cũng chẳng sao.
=====================
Theo bác Hoàng Long Hải người P Đệ Tứ viết trong bài Phường Đệ Tứ ....Trong cuộc Hành Quân Lam Sơn 719, Trương Đá là bạn từ thơ ấu của Hùng. (Hùng Móm Nhảy Dù về tái chiếm thành cổ sau này) Nhiệm vụ chung của trung úy Đá là lo “tiếp vận cho các đơn vị sư đoàn Dù” ở Lào, “nhiệm vụ riêng” là “tiếp vận rượu Mỹ” cho Hùng Móm. Hùng khoe với tôi: “Chưa bao giờ hành quân uống rượu đã như lần nầy”. Hồi ấy quân Mỹ còn đóng ở Ái Tử, rượu Mỹ khá rẻ. Dân cùng xóm, bà con, anh chị em gia đình tôi, ai ai cũng thương Hùng, lo gởi cho Hùng “vài chai”
============
`Tiếp theo nhà chú Phan Hưu là nhà ông Phương có người con trai đi lính không quân . Anh hay lái nguyên bộ đồ bay ghé tạt thăm ông bà. Ông Bà Phương có chị con gái đi nữ tu nhà dòng sau lại về. Chị ấy trắng trẻo đẹp gái và quá hiền lành . Kế là nhà vườn mới của ông Thệ( sau khi bán nhà cũ cho nhà Huỳnh Rô, ông Thệ xây nhà mới ở lô đất mới này). Sân trước trồng mấy cây trứng gà , ông không bỏ thói quen quét cái sân đổ bằng đất cày ngoài ruộng gánh vô "láng xì cón " . Cũng là cái chỗi cán dài , bộ Bà Ba trắng, và cái dáng của ông. Tôi rất thân với nhà Ông, cứ ra nhà ông chơi. Sáng sáng là ông dậy sớm chế ly cà phê sữa rồi. Tôi còn nhớ như in ba ông - ông Thệ, ông Kinh cùng cậu Cư tôi sao mà mê "tài bàn " tức là tổ tôm đến thế. Khi nhà này, mai nhà khác ... cái thú vui của ba người là tài bàn. Có khi ba ông đánh cho đến sáng mới về.
*
Từ lúc có phong trào "di dân" phía ruộng. Có nghĩa người ta bán mặt tiền ngoài đường Lê v Duyệt ra tậu đất ngoài này. Cái ranh giới cuối cùng mở rộng ra ; ví dụ phía nhà ông Nguyễn tri Duyến thì có Đại Đội Vũ Trang Chiêu Hồi được thành lập. Lịch sử Trung Tâm chiêu Hồi này phải trước 1967 chắc chắn có Mỹ trợ giúp. Do sao tôi biết rõ? Nhưng giữa Trung tâm chiêu Hồi và nhà Ông Duyến, có hai nhà lên ngụ cư tạm thời nên đấp đổi đất đai tạm thời làm mái tranh tôn qua ngày tháng. Đó có nhà o Hảo cũng là quả phụ hình như trong nhà có đứa bé tật nguyền chỉ nằm bất động không đi đứng được rất khổ. Những mái nhà này nền thấp nên mỗi khi nước lụt về là tràn ngập gần nửa nhà.
Từ lúc có phong trào "di dân" phía ruộng. Có nghĩa người ta bán mặt tiền ngoài đường Lê v Duyệt ra tậu đất ngoài này. Cái ranh giới cuối cùng mở rộng ra ; ví dụ phía nhà ông Nguyễn tri Duyến thì có Đại Đội Vũ Trang Chiêu Hồi được thành lập. Lịch sử Trung Tâm chiêu Hồi này phải trước 1967 chắc chắn có Mỹ trợ giúp. Do sao tôi biết rõ? Nhưng giữa Trung tâm chiêu Hồi và nhà Ông Duyến, có hai nhà lên ngụ cư tạm thời nên đấp đổi đất đai tạm thời làm mái tranh tôn qua ngày tháng. Đó có nhà o Hảo cũng là quả phụ hình như trong nhà có đứa bé tật nguyền chỉ nằm bất động không đi đứng được rất khổ. Những mái nhà này nền thấp nên mỗi khi nước lụt về là tràn ngập gần nửa nhà.
Năm 1967 là năm cổng Thành Cửa Hậu bị đánh để giải thoát tù chính trị . Phía 'bên kia' cũng giả dạng "chiêu hồi ", xong hay ra chơi phía quán truóc đường nhắm địa thế cổng thành và sau đêm đánh xong họ cũng "biến mất "? Hồi này tôi quen một anh lính chính quy người Hà Nội tên Sơn , đẹp trai , giọng Hà Nội rất hay. Sơn hay la cà từ ty Chiêu Hồi qua chơi nhà ngoại tôi , vào phòng học tôi ở mái sau. Thấy tôi chăm học , Sơn rất thích. Anh còn mở bóp lấy tấm ảnh kỷ niệm một quán nuóc ơ Hà Nội trước ngày anh đi lính vô nam và sau đó "chiêu hồi". Sau khi cổng lao xá Cửa Hậu bị đánh (1967) , Sơn ,người bạn chiêu hồi mới quen cũng biến luôn? Hồi này còn có mấy anh CHiêu Hồi lính chính quy khác nữa mà tôi quên tên mất. Lính Mỹ có công nhiều trong việc xây dựng Trung tâm Chiêu hồi này . Xe chở đất liên tục ngày tháng để lấp đầy vạt ruộng rộng thì phải biết là bao nhiều thuớc khối đất chở từ xa về. Xe Mỹ chạy ra vô suốt ngày , đến nỗi tôi học được vài ba tiếng Anh cũng đề đầu đường vô, cạnh cái cột đèn dòng chữ trên tấm giấy carton "Children, slow down" , tôi không biết thêm chữ please cho lịch sự như bây giờ . Mấy ông Mỹ lái xe chở đất xong đi ra ngo ngó vào tấm bảng.
Quân đội Hoa Kỳ thời đó còn đem về đại đội Chiêu Hồi này ban nhạc hợp tấu giúp vui cho mấy anh VC. Bữa đó, cả xóm chạy ra nghe đội hòa nhạc Mỹ hòa tấu bản "ĐÊM ĐÔNG" nghe hay đáo để. Cậu Võ Hoa tôi lò dò lấy cái máy Cassette ra thu tiếng, làm như là phóng viên , tôi không nhớ có thu được không?
`Từ sau thời gian thành lập Đại đội Võ trang Chiêu Hồi sau cánh đồng xóm Hậu thì phong trào xây nhà ra xa hơn. Nhưng theo hai bên con Đường Ngự mà tiến ra sau đồng ruộng. Căn bản những người cố cựu trước đường ra "lập nghiệp" ngoài này như nhà ông Thê, nhà Ông Nguyễn v Ba tức là ông thân thằng bạn tôi Nguyễn văn Bốn. Nhà ông Lâm tức là võ sĩ Bách tùng Lâm , nhà chú Vân lái xe trácion QT- Huế ,,, còn thêm người dưới làng vì tình trạng chiến tranh lên đây lấn ruộng ở hai bên con đường thật nhiều.
chủ những chiếc xe chở khách hiệu RENAULT giống trong hình trong xóm tôi gồm nhà Chú Thanh, chú Chốn, Chú Ba, ông Khóa Thanh ...
Nhưng tôi phải nhắc đến nhà chú Xứng ỡ kế nhà ông Thệ . Nhà chú Xứng mới ở sau này. Có cái tôi nhớ là chú làm nghề cắt dép bằng lốp xe hơi mà đầu tiên trong đời tôi thấy. Chú làm nghể dép lốp này bán trên chợ Tỉnh . Tuy là cắt dép lốp , nhưng không có hình dáng dép lốp như bộ đội sau này, mà hình dép nó đẹp hơn, tuy cũng có những quai dép bằng ruột xe. Hết nhà chú Xứng làm nghề guốc dép mới tới nhà chú Nguyễn văn Ba tức là ba thằng Bốn bạn tôi , có nhắc trước ở phần trên . Chú Ba bán căn nhà 65 Lê văn Duyệt ngoài đường cho chú Huỳnh Chốn xong ra đây vừa có đất xây cái nhà ngói "to đùng" vừa có chỗ đậu xe và còn dư đất xây thêm nhà trên nữa. Đất đai tại sao mà rẻ? Thời này có phong trào di dân lập nghiệp trong Long Khánh. KHông phải di dân lập ấp 1973 đâu , thưa bạn đọc. Phong trào này có từ lâu. Nhà cậu tôi cũng treo bảng bán , may mà không ai mua. Nhưng cũng vì lưu luyến nên chần chừ. Do đó vì phong trào vô nam này mà đất ngoài ruộng này rẻ như bèo. THời buổi chiến tranh ai ở càng gần đường phố thì cái bụng lai yên tâm hơn. Kế cái "gia trang " của thằng Bốn là nhà của ông Lâm , thấn sinh chú Tùng ,tức là võ sĩ Bách Tùng Lâm như tôi vừa nói đoạn trên. Ông Lâm bán nhà cạnh nhà cậu tôi cho ba mẹ Hà thị Bích Huờng xong thì ra đồng. Cũng nhà gỗ nhà tranh và làm ruộng thôi. Nhà ông Lâm hay gọi cho đúng là nhà chú Tùng(làm trưởng nhóm lính gì của Mỹ gọi là xi ti gì đó?)có cái đụn rơm và mấy cây mít , um tùm cái ao rau muống.
Ngó qua đường Ngự là nhà chú Vân ba của Nguyễn thị Ba , Nguyễn thị Bốn , có một "thằng Cu " nữa hay em trai mà tôi hay gọi là Cu Vân. Giấy tờ là Quyền nhưng tôi có khi nào nghe đâu, cứ con trai là "cu" xong lắp thêm tên cha là "yên chuyện". Cái lối gọi này như một cái "luật bất thành văn " tự nhiên cho tất cả bà con trong thôn xóm. Chú Vân lái xe tắc xi thuê cho chủ , nghèo hơn . Đi về là chú không quên ghé quán mạ tôi đầu đường NGự uống một hai cốc rượu thuốc mới vô nhà. Chú làm tài xế cho người ta nên nghèo. Cái nền nhà xây xong , chỉ trơ mấy hàng táp lô năm này qua năm khác. Cũng phía này kế nhà chú là dảy trường ấp tân sinh khá dài gồm mấy lớp. QUa lại bên này đường là nhà chú Thí em rễ Chú BA. Lạ là bà nội của thằng Bốn tức mẹ của chú Ba lại thích ở với o Gái vợ chú Thí thôi. Chú Thí cũng là tài xế lái thuê nên nghèo hơn nhiều. Sát nhà chú Thí là nhà chú Ngụng làm lính trong thành. Nhà chú cũng lên ngụ cư sau này. Tôi nhớ chú Ngụng là nhớ chiếc xe Dodge Cartge khi nào chú về nhà cũng kéo một cái xe rơ -móc (remorque) đầy nước về cho nhà xài , khỏi gánh. Nhà chú Ngụng ở đằng trước , phía sau là một cái xóm dưới các làng mới lên đây tạm cư, người ở chen chúc. Vì chiến tranh mà họ tạm cư lên đây. Ruộng vườn bỏ lại dưới làng , ăn theo đồng lương "lính tráng" chắc là khó khăn nhiều. Phía cạnh xóm này là bãi tha ma lâu đời tiếp giáp với hai thôn CỔ Thành và Hạnh Hoa. Hồi này có làng Cổ Thành gần Trí Bưu và Hạnh Hoa còn Thành Cổ người ta còn gọi là Thành chứ không phải Cổ Thành như bây giờ hay gọi. Ví dụ ngày đó người dân hay nói ...lính trong Thành , có pháo kích trong Thành , khu gia binh trong Thành , Tiểu Khu sau này đóng trong Thành...
Ra lại con đường Ngự, tiếp tuc bên phải là cái vườn ông bà Tám. Cái vườn rất rộng của bác Tám tức là ông bà thân của chị nguyễn thị Hoa , Nguyễn v Lành , Nguyễn thị Thêm (Quỳnh Ni sau này). Nhà bác Tám tôi còn nhớ trước đó, nhà bác bán tiệm tạp hóa duói Góc Bầu gần tiệm Bác Kỳ. Tiệm bác Kỳ sát bên nhà chú Đặng Sỹ Tịnh có bút danh là Trịnh duy Nhượng. Chú Tịnh từng là bạn văn thơ với cậu tôi là Võ Hoa có bút danh là Trần giã Viên. Sau này bác Tám cũng theo phong trào "di dân" ra con đường Ngự này "khai hoang lập ấp ". Cái vườn cuối cùng trước khi chạy 1972 mới đáng nói vì bác Tám ông đã tạo dựng một vườn ổi xá- lị rất rộng. Trước cửa ngõ nhà bác là cái quán bán hàng lặt vặt, kiếm thêm lợi tức trong nhà.
Đối với vườn bác Tám là khu vườn cuối cùng, ngó qua bên kia con đường ngự là cả chục gia đình từ dưới Triệu Phong, mấy làng chạy lên do chiến tranh. Xóm này là hình ảnh cuối cùng tôi ghi nhận được cho đến cái mút thời gian 1972.
Con đường NGỰ CÒN DÀI lắm, nó phải chạy mãi đến khi giáp với bờ sông Vĩnh Định giáp với thôn An Tiêm. Một thời tuổi nhỏ tôi có những "chuyền phiêu lưu" đi theo con đường đất rộng cao như con đê này về các vườn dưa gần An Tiêm kiếm rế . Tôi không quên được những cây mắm xôi , những bụi chứa dại và mấy con châu chấu voi to lớn. Hai bên là cánh ruộng loáng nước mùa cấy , cho đến lúc nước lụt với cảnh nước đục ngầu mêng mông , hay mùa khô cánh đồng trơ gốc rạ...
Tuổi dại lớn lên bên con ĐƯỜNG NGỰ cùng tình bà con làng xóm , tôi cứ nhớ mãi suốt đời.
cây bông cợi (nàng nàng)
bông cỏ hôi
Nỗi nhớ da diết đó vẫn mãi theo tôi cho đến hôm nay, nhất là những ngày hè nghỉ học tôi hay lang thang đi chơi dọc theo con con đường thân quen đó. Tôi không quên những khóm hoa ngũ sắc, mấy bụi mâm xôi, bụi dứa dại, cây lá ngái mọc dại bên đường; lạ thật, qua xứ người, mỗi khi ngắm những chậu hoa ngũ sắc người ta bày bán trong mấy tiệm Home Depot năng nhắc tôi nhớ về 'đường xưa lối cũ' , cái thời 'đuổi hoa bắt bướm' ...
bông cỏ hôi
Nỗi nhớ da diết đó vẫn mãi theo tôi cho đến hôm nay, nhất là những ngày hè nghỉ học tôi hay lang thang đi chơi dọc theo con con đường thân quen đó. Tôi không quên những khóm hoa ngũ sắc, mấy bụi mâm xôi, bụi dứa dại, cây lá ngái mọc dại bên đường; lạ thật, qua xứ người, mỗi khi ngắm những chậu hoa ngũ sắc người ta bày bán trong mấy tiệm Home Depot năng nhắc tôi nhớ về 'đường xưa lối cũ' , cái thời 'đuổi hoa bắt bướm' ...
Rồi tất cả cùng chung số phận, cái tên đường Lê văn Duyệt cùng thành phố đó mất rồi . Cũng như con ĐƯỜNG NGỰ, nó theo nhau về miền dĩ vãng. Nỗi cảm hoài u uẩn cho những gì thuộc chuyện xưa tích cũ đến khi viết lại cho thế hệ mai sau là góp nhặt cát đá dựng xây lại hình ảnh xa xưa giờ đã mất.
Đinh hoa Lư 17/3/2014
edition 28/2/2023
No comments:
Post a Comment