Monday, October 10, 2022

TÂM SỰ NGƯỜI DI DÂN TRONG CUỘC VIỄN HÀNH TÌM VỀ CALIFORNIA

 

 



                            ***


Đoàn xe của người dân phiêu bạt từ bên mép đường bò lên mặt xa lộ lớn xuyên bang để tiếp tục cuộc di dân về miền Tây. Ban ngày họ hối hả vội vàng chẳng khác gì đàn bọ bay về  hướng đó. Khi bóng tối bao trùm họ tụm lại với nhau lại cũng giống một đàn bọ đang tập trung về ổ hay tập trung tìm nguồn nước. Lý do là họ quá cô đơn và rối loạn, do phải ra đi cùng với nỗi buồn, lo, thua cuộc;  họ ra đi  từ sức hấp dẫn của những huy hoàng nơi họ sắp tới. Từ đó họ vội vàng truyền miệng, sẻ chia nhau những gì trong đời sống, cho nhau từng miếng ăn để hi vọng tới cho được một miền đất mới xa xăm.

Một gia đình vừa dựng lều tạm nghỉ gần một con suối lại có ngay một gia đình tới cắm trại gần đó ngõ hầu hợp tác, rồi sẽ có thêm một gia đình thứ ba nữa do hai gia đình kia đã tiên phong dựng trước nơi này do họ biết nơi dựng lều này rất tốt. Cho đến khi mặt trời xế bóng, nơi này có tới hai chục gia đình cùng xe cộ tập trung lại rồi.

Chuyện lạ sẽ xảy ra vào chiều đó: hai mươi gia đình là một nhà, tất cả con trẻ đều trở thành con cái một nhà. Sự mất mát nơi ăn chốn ở nay là sự mất mát chung nhau, và cái giấc mơ “hoàng kim” của một miền tây trước mắt đang trở thành giấc mơ chung.

 Nếu một em bé trong đoàn bị bệnh sẽ gieo nỗi tuyệt vọng chung tới mọi con tim của cả hai chục gia đình đó, cả trăm con người. Nếu có đứa trẻ  sơ sinh nào đó chào đời dưới mái lều đó, cả trăm con người cùng lúc im lặng, nín thở, lo âu suốt đêm. Một niềm vui mừng hớn hở sẽ bùng phát cùng chung lúc trời vừa sáng. Gia đình vừa qua một đêm trong nỗi lo âu sợ hãi đó sẽ tìm lại những đền bù từ cháu bé mới ra đời. Tối đến, họ sẽ cùng nhau ngồi bên đống lửa. Hai mươi gia đình là một. Họ kết đoàn thành một khối qua từng buổi chiều và từng đêm như thế. Cái đàn ghi ta bó kỹ trong tấm mền, được lấy ra; được đàn, được hát- những bài hát quen thuộc mà mọi người từng hát nhiều đêm. Đàn ông hát lời, còn đàn bà thì ngâm nga ậm ừ theo điệu nhạc.

Mỗi một đêm về người ta tạo thêm một thế giới khác với đồ đạc, bạn, thù đủ chuyện; một thế giới tạo lập thêm từ những đứa khoác lác, những tên hèn nhát, hay mấy người kẻ im lìm khiêm tốn, cùng mấy người hảo tâm tốt bụng. Mối liên hệ từng đêm như vậy lại tạo thêm một thế giới lạ lùng cho đến khi sáng dậy cái thế giới đó lại bị lại tan hoang đi chẳng khác gì đám xiệc.

Lúc đầu cái thế giới của mọi gia đình đó  ai ai ban đầu  rụt rè, chậm chạp trong xây và dẹp lán trại, dần dà họ quen dần đi và công việc này trở thành chuyên nghiệp. Họ tạo nên kẻ cầm đầu và nảy sinh ra và luật lệ, rồi lại sinh thêm quy tắc. Cái thế giới đó càng di chuyển về hướng tây càng tinh vi cùng hoàn thiện hơn do người xây ra nó càng lúc càng kinh qua trong quá trình kiến tạo từng ngày.

Mọi thứ quyền đều được mọi nhà công nhận- quyền tư riêng trong lều; quyền giữ những gì  đen tối của quá khứ họ trong lòng; quyền được nói và quyền được nghe; quyền từ chối hay chấp nhận giúp đỡ, cũng như quyền ngỏ ý hay từ chối giúp đỡ; quyền tán tỉnh của con trai hay quyền được tán của con gái; quyền được ăn lúc đói  hay quyền của thai phụ cũng như kẻ ốm đau được ưu tiên vượt lên mọi quyền khác. Mọi gia đình này tuy không ai nói cho nhưng đều học được rằng, có nhiều thứ quyền quái dị phải bị dẹp bỏ: đó là quyền ồn ào khi toàn các lều đã ngủ, quyền dụ dỗ người ta để hãm hiếp, quyền ngoại tình hay ăn trộm cùng sát nhân. Tất cả thứ quyền quái dị đó phải bị nghiền nát do cái thế giới nhỏ bé đó không thể nào tồn tại qua một đêm thôi giá như cho các quyền như thế vẫn hiện hữu.



Rồi khi những thế giới như vậy dịch chuyển về hướng tây, dầu không ai nói với những gia đình đó,  những điều lệ đó sẽ hóa thành luật pháp.   Sẽ trái Pháp luật nếu  ngu dại bén mãng gần các trại đó; cũng trái pháp luật nếu lỡ dại bén mãng vào nước uống dù bất cứ với lý do gì; cũng trái pháp luật nếu ta ăn đồ ăn ngon bổ gần kẻ đói khát trừ phi người ta xin bạn.

Pháp luật đó còn đi kèm với trừng phạt—và chỉ có hai loại trừng phạt—một loại trừng phạt nhanh và một loại trừng phạt bằng đoạn đường phải chiến đấu gian khổ đến chết người hay có thể hiểu đó là lưu đày; mà lưu đày là sự trừng phạt ghê gớm nhất. Lúc này, nếu ai đó đã phạm luật thì xem như tên tuổi và khuôn mặt của họ sẽ theo họ suốt đời. Kẻ này sẽ không còn một chỗ dung thân trong bất cứ nơi nào, dù họ có xây dựng được gì bất cứ nơi đâu.

Trong thế giới này, khi người ta quan niệm hạnh kiểm xã hội là những gì cố định và cứng nhắc, đó là lúc họ bắt con người phải nói “Chào buổi sáng” lúc cần thiết để khi ở lại gã ta sẽ có được đàn bà sẵn lòng với gã rồi nếu làm cha cùng bảo vệ những đứa con của nàng. Nhưng người đàn ông không thể mỗi đêm mỗi bà, nếu làm thế tất nhiên sẽ phá hoại thế giới này.

Nhiều gia đình di cư về hướng tây, kỹ thuật kiến dựng thế giới này tiến bộ từng ngày để họ được an toàn trong thế giới của họ; thứ hình thức này phải cố định cho từng gia đình hành xử luật lệ từ đó biết được họ sẽ sống yên nhờ vào luật lệ này.

Từng bước tiến bộ hơn thêm khi họ có chính phủ cho thế giới đó, có lãnh đạo gồm những lão niên. Người thông minh khám phá ra rằng từng trại đang cần thứ thông minh của gã; một đứa ngu không bao giờ thay đổi được gì trong thế giới này do từ cái ngu của hắn. Những đêm dài như thế sẽ phát triển thêm một dạng bảo hiểm. Người có thức ăn sẽ nuôi một người đói, làm như thế gã sẽ bảo đảm chống lạ sự đói khát. Có hài nhi nào qua đời sẽ có một xâu đồng tiền bạc đặt tại cánh cửa, do trẻ sơ sinh đáng được chôn cất tử tế, lý do cuộc đời em bé chưa có mảy may gì cả. Người già thì có thể chôn cất ở nơi dành cho kẻ bần cùng, xa lạ chứ không bao giờ dành cho trẻ sơ sinh được.

Vật chất kiến tạo nên thế giới đó có nước và bờ sông, có dòng suối cả, có con khe con thậm chí có cả vòi nước không có người canh giữ. Còn có những khoảnh đất bằng phẳng cần để dựng lều, một ít củi để làm nên bếp lửa. Có một nơi đổ rác không xa quá, nơi đó lại cần có một ít dụng cụ--vài mặt lò cùng lá chắn lửa, vài cái lon vừa để nấu cũng như dùng để ăn. Cái thế giới đó xây xong trong buổi chiều. Khi người ta từ xa lộ đổ lại, lều trại dựng lên từ con tim và khối óc.

Sáng đến lều trại đều hạ xuống, các tấm bạt dày đều cuốn lại, cọc lều cột chặt từng bó cột theo thành xe, giường ngủ đặt lại trong xe,  nồi song đặt lại đúng nơi. Những gia đình đó tiếp tục đi về hướng tây. Kỹ thuật xây dựng vừa chiều hôm trước, nay tiếp tục tháo ra khi ánh bình minh vừa hé; tất cả phải chính xác không xê dịch, để cho các mái lều cuốn lại vào đúng một nơi, song chảo đếm xong bỏ vào thùng. Rồi khi đám xe bò về hướng tây, mỗi thành viên của gia đình càng lớn thêm trong vai vế và nhiệm vụ thích hợp của mình;  để mỗi thành viên, dù già hoặc trẻ, có được một chỗ trong xe; rồi những buổi chiều nóng bức mệt mỏi khi đoàn xe vào được vị trí dựng trại rồi ai nấy đều biết bổn phận mà làm chẳng cần ai chỉ bảo. Trẻ con đi lượm củi, xách nước; đàn ông dựng lều và đặt giường; đàn bà lo nấu món tối và chăm coi khi gia đình đang ăn. Tất cả đều làm việc mình chẳng ai chỉ huy.

Những gia đình, có nghĩa là từng đơn vị có một thứ ranh giới của một mái nhà vào ban đêm, một nông trại vào ban ngày, sẽ thay đổi ranh giới kia. Dưới ánh nắng nóng bức kéo dài, họ phải im lặng chịu đựng trong xe khi di chuyển chậm chạp về hướng tây; rồi đêm về họ sẽ kết hợp với bất cứ nhóm nào họ thấy.

Điều đó đã thay đổi đời sống xã hội của họ---thay đổi toàn bộ thứ vũ trụ trong đó chỉ có đàn ông có thể thay đổi. Họ không còn là nông dân mà là di dân. Từ đó tư tưởng, kế hoạch, những cái nhìn chằm chặp trong câm nín từng thấy trong cánh đồng nay đã vượt ra ngoài xa lộ những khoảng xa diệu vợi để đi về miền Tây. Con người đó trí óc từng bị ràng buộc với chuyện của từng mẫu đất nay phải sống với từng dặm đường bê tông chật hẹp. Cùng từ đó những ý nghĩ cùng lo toan không còn là chuyện mưa, gió, bụi hay được mất của thu hoạch nữa. Mắt họ giờ chú ý vào bánh xe hơi, tai lắng nghe thật kỹ tiếng động của máy xe, trí óc phải tính toán với chuyện dầu, xăng, lớp lốp ngăn giữa không khí trong bánh xe và mặt đường ra sao?

Rồi tấm bi kịch từ hộp số xe ập đến. Thức ăn trên lửa cả buổi chiều không có nước. Phải cần có sức để tiếp tục cuộc đi, rất cần tinh thần để tiếp nối cuộc hành trình. Ý muốn về hướng tây đang thôi thúc họ vượt bao nỗi sợ nắng hạn thiêu mình hay lũ quét dọc đường, tất cả đều không thể níu chân họ đang cố sức lê lết về hướng tây.

Từng lần cắm trại đều y thế--rồi cứ một lần như thế cuộc hành trình sẽ dần thu ngắn lại.

Có nhiều gia đình đã vượt qua hoảng loạn dọc đường, lái xe đêm, ngày. Họ dừng và ngủ trong xe, cùng nhắm về hướng Tây; từng khoảnh khắc như muốn bay cho nhanh trên đường. Lòng ước ao và ham muốn vĩ đại đó đã hằn sâu lên nhiều khuôn mặt dẫn đưa họ lái về hướng tây, ép cho được cụm máy đang kêu than rệu rã trên đường làm theo ý muốn của mình...

Rồi mặt trời lặn, những gia đình đó lại tiếp tục có một đời sống mới về đêm—đó là thời gian tìm chỗ dừng chân tạm nghỉ.

Vài mái lều đã dựng trước. Thấy một số lều dựng lên, chiếc xe vội  tạt qua mé lộ. Người ta ân cần lịch sự tiếp đón nhau. Người đàn ông, chủ gia đình ló đầu ra cửa xe:

-       -Chúng tôi có thể dừng tạm nghỉ ở đây chăng ông bạn?

-       -Sao không? Chắc chắn là được thôi, rất hân hạnh. Các bạn từ Tiểu Bang nào vậy?

-       Từ Arkansas đi một mạch tới đây đó bạn à.

-       Đằng kia kìa, cái lều thứ tư đó, họ từ Arkansas đó bạn.

-       Thật vậy sao?

Rồi một câu hỏi cần thiết khác:

-Còn nước có không?

-Ồ, tuy uống không ngon lắm nhưng khá nhiều đó bạn.

-Tốt quá, cám ơn ông bạn nhé.

- Không dám, đừng nói chuyện cám ơn làm chi.

Người ta ân cần tử tế với nhau như thế. Chiếc xe chồm trên mặt đất hướng về phía cái lều cuối, dừng lại. Một số người mệt mỏi trèo ra khỏi xe, những tấm thân cứng đơ đau nhừ. Rồi thêm một tấm lều mới căng lên; mấy đứa trẻ vội tìm nước, mấy đứa anh thì lo vơ củi. Ngọn lửa nhóm lên, món ăn tối được bỏ vào nước nấu hay chiên. Vài người tới trước mon men lại làm quen, họ hỏi nhau từ tiểu bang nào? Vài người bạn hay bà con nhận ra nhau.

-Oklahoma hả? Quận nào?

-Cherokee.

-Sao, tôi có bà con ở đó. Bạn biết gia đình Allens không? Gia đình Allens ở Cherokee. Bạn biết gia đình Willises không?

-Sao không? Biết chớ.


Cứ thế một đơn vị mới hình thành. Hoàng hôn buông xuống, nhưng gia đình mới tới đã dựng xong lều trước khi màn đêm thực sự bao trùm. Có một ý nghĩa mới hơn đang đến với mọi gia đình lúc này-  họ biết mọi nhà đều là NGƯỜI DÂN LƯƠNG HẢO.


                                    ***




Cả đời ta biết rõ gia đình Allens. Simon Allen và cha của Simon gặp rắc rối với người vợ trước. Bà ta là gốc dân Cherokee. Bà khoan thai rỉ rả chẳng khác gì… con ngựa con đen.

 Simon con, cậu ta lấy con gái nhà Rudolph, phải chăng? Đó là điều ta nghĩ. Họ về sống ở quận Enid và làm ăn tốt—thật sự tốt. Chỉ có gia đình Allen là thành công chưa ai từng có, gia đình này từng có nhà chứa xe.

Trẻ em đi kiếm củi và xách nước, chúng e ngại bước rón rén, cẩn thận len qua mấy mái lều. Mấy em gắng làm quen với cử chỉ chào nhau khá phức tạp. Có cậu bé dừng lại cạnh một cậu  bé khác sau khi chăm chú nhìn một viên đá xong lượm lên săm soi kỹ lưỡng. Cậu ta nhổ nước bọt chùi kỹ viên đá, xong  nhìn thật kỹ lần nữa mới đưa qua đứa bạn cùng xem...

-Bạn được gì thế?

-Chẳng gì cả tình cờ được viên đá này thôi.

-Ô, thế sao, bạn nhìn chăm chú như có gì trong đó vậy hả?

-Mình nghĩ có vàng trong đá này.

-Sao bạn biết? Vàng sao chẳng giống vàng? chỉ một màu đen của viên đá thường thôi?

-Chắc thế, ai cũng biết vậy mà.

-Mình dám cá ai nói vàng là người ngu, bạn cũng nghi nó có vàng hả?

-Không phải vậy đâu.  Ba mình tìm ra chán khối vàng, ông dạy mình cách thức nhìn viên đá như thế nào mà.

-Bạn gắng làm sao nhặt cho ra một viên đá có vàng thật lớn xem nào?

-Nói sao? Mình làm sao nhặt cho ra cục vàng “chó đẻ” lớn như bạn nói được?! nhỏ như viên kẹo chắc bạn cũng chưa bao giờ gặp, huống gì?

-Mình chẳng muốn thề thốt làm gì, nhưng dù sao mình phải thề rằng chưa bao giờ có được như bạn nói cả.

-Mình cũng thế, thôi tới suối kiếm nước đi!

***  

  Mấy thiếu nữ lại tìm nhau, thẹn thùng nói về mấy  lời bàn tán sắc đẹp của các nàng. Mấy nàng còn thổ lộ ước muốn thầm kín trong lòng cho ngày mai nữa. Nhóm đàn bà phải lo nấu nướng, bận rộn trên bếp lửa. Họ phải hối hả nấu cho xong món ăn nào đó phục vụ cho mấy cái bụng xép lẹp của gia đình— Món thịt heo dành cho nhà nào có khá tiền, đã là thịt heo thì phải đi kèm với khoai tây và hành. Món bánh bít- quy làm từ lò nướng Hòa Lan, bánh bột bắp, dùng kèm với nhiều nước sốt rải trên mặt. Thị sườn, thịt băm dùng xong còn có một lon nước trà đen đậm, chát. Nhà nào đồng tiền hạn hẹp, chỉ có bánh bột chiên. Bánh bột chiên giòn cùng một chút nước gì đó màu nâu chan lên trên là xong.


Những gia đình giàu có, có thể họ khá dại dột dùng tiền lúc này để ăn mấy thứ hạng sang, các thứ đậu, đào đóng hộp, mỳ hay bánh ngọt đóng gói. Nhưng họ biết, họ phải ăn kín đáo trong lều thôi, do ăn công khai những thức ngon như thế thật không đẹp chút nào. Bởi sao? Ngay cả lũ trẻ con khi miệng nó ăn bánh nướng nhưng mũi chúng ngửi được món đậu hầm đâu đó bốc lên chúng sẽ buồn tủi vô cùng.

Buổi ăn tối đã xong, chén dĩa rửa rồi thì bóng tối vừa bao trùm tất cả. Lúc này nhóm đàn ông lại ngồi chồm hổm bên ngoài trò chuyện. Họ nhắc lại chuyện đất đai vừa bỏ lại đằng sau.

-Ta chẳng biết những gì sắp đến?

Đó là điều họ thường nói đến. Đất nước này bị chiếm đoạt hết rồi.

Đất nước đó dù có lại dù chúng ta không còn trở về chốn cũ.

Họ lại nói- có thể chúng ta đã phạm tội nào đó mà chúng ta chẳng hề hay biết.

Bạn bè nói với ta, nhóm cầm đầu trong đoàn vừa lập này cho rằng họ chẳng làm gì chúng ta cả do đây là thứ chính phủ thân hữu. Gã còn nói, nếu bạn vượt qua ranh giới nào đó lúc này chính phủ này chẳng nuốt chửng một ai. Chẳng cần thử thách thứ chính phủ này làm gì. Bữa tối vừa rồi cũng chẳng vượt qua ranh giới nào. Dù có ai cố đào bới không ngơi một cái rãnh thật sâu rồi chạy lanh quanh tất cả đều có đấng Jesus Christ chứng minh trong lòng.

Họ trìu mến kể lại chuyện nhà cửa: căn nhà thân thương dưới chân cái cối xay gió. Nhờ ơn một nơi đã từng cho họ sữa làm kem còn cả dưa hấu ngọt ngào. Nửa trưa nóng bức bạn mong một nơi nghỉ ngơi mát mẻ ư, thì hãy vào nhà xong cắt ra một trái dưa hấu, nước chảy ròng ròng, ôi mát mẻ làm sao.

Họ còn kể cho nhau về nhiều chuyện buồn đời họ: Có người em tên là Charley, tóc vàng quăn như râu bắp, nó đã trưởng thành, chơi đàn acordion rất hay. Có một ngày kia thật bi thảm đến với nó, khi đi san luống cày. Ôi, có tiếng vo vo của rắn rung chuông, đàn ngựa bỏ chạy rồi cái bừa đã cày lên Charley. Lạy Chúa Toàn năng,  những mũi cày, lại bừa lên bụng ruột, và kéo phăng khuôn mặt cậu ta!

Họ bàn về tương lai: băn khoăn lo lắng hình ảnh nơi đến ra sao?

Ồ, công việc hái trái cây quá tốt. Ta thấy họ đang cần và khấm khá lắm, vườn hồ đào và dâu lại quá gần nhau- gần như "đít đến gáy" chú lừa vậy. Lại có chóp núi tuyết phủ trắng xóa xa xa. Một phong cảnh trông đẹp làm sao.

Nếu chúng ta có ngay công việc ở đó thì quả là tốt đẹp. Mùa Đông không còn lo chuyện lạnh, con nít đi học không còn chết cóng người. Đám trẻ nào không đi tới trường được, ta có thể dạy do ta biết chữ nhưng bạn làm thế thì chẳng hay chút nào.


                                  *** 




Trước lều có một gã đem ra cây đàn ghi-ta. Gã ngồi trên cái thùng rồi dạo đàn, mọi người từ các lều nghe đàn từ từ lần tới gần gã. Phần nhiều đàn ông đều biết chơi ghi-ta, nhưng người này xem chừng là dân gảy đàn điệu nghệ hơn. Thế đó, bạn có thể gã dạo những hợp âm sâu sắc, có lúc từng giai điệu y những bước chân nhỏ bé lướt trên từng sợi dây đàn. Cũng có lúc mấy ngón tay thô cứng kia lại biết diễu hành trên mọi phím đàn. Tiếng đàn càng hấp dẫn mọi người tiến gần với gã cho đến khi cái vòng người kia chật cứng, rồi gã hát:

-Mười xu bông và bốn mươi xu thịt …

Rồi cái vòng người kia nho nhỏ hát theo gã.

-Hỡi các em gái, sao các em nỡ cắt tóc đi?

Rồi cả vòng người kia tiếp tục hát theo. Tiếng gã như than như khóc, “Ta đang rời xa Miền Texas Xa Xưa” bài hát nổi tiếng đó ngày xưa hát bằng tiếng thổ dân Da Đỏ, từng hát trước khi người Tây Ban Nha đến đó.

Giờ thì mọi người kết hợp với nhau thành một thứ, một đơn vị. Rồi trong bóng tối các đôi mắt đều trầm mặc, hướng nội. Tâm trí họ để dành chuyện vui chơi vào dịp khác cốt làm sao để các nỗi buồn cùng được ngơi nghỉ, ngủ yên. Gã đàn ghi-ta lại hát bài “ Những Màu Xanh của Nhà Tù McAlester” và một bài khác dành cho người già, bài “Jesus Gọi Ta Về Phía Người”.

Trẻ con thiu thỉu ngủ gật theo tiếng nhạc, chúng bèn mò vào trong lều. Ngoài kia tiếng hát đang đưa đám người dần dà vào giấc mơ êm đềm. Chợt gã buông đàn đứng dậy, ngáp dài:

-Thôi Chào các bạn, chúc ngủ ngon nhé!

Mọi người thì thầm:

-Chúc ông bạn ngủ ngon!

Ai cũng mong gã lo cầm cây đàn cất đi, cây đàn  lúc này chẳng khác gì của quý. Mọi người tìm giấc ngủ, khu lều chìm trong yên lặng. Có tiếng cú kêu đêm, xa xa tiếng sói hoang tru lên từng hồi, vài con chồn hôi đang mò tìm thức ăn rơi rớt trong bóng tối—thứ chồn hôi đuôi bông, chúng đã tinh lại còn tự phụ chẳng sợ thứ gì trong đêm đen cả.

Đêm dài qua đi, ánh bình minh từ từ hé dạng, đàn bà lo bước ra lều, nhóm lửa, lo đun cà phê. Đám đàn  ông tiếp tục lòn ra sau, thầm thì nói chuyện với nhau khi ánh sáng ban mai ló dần:

-Khi các bạn vượt  Sông Colorado, người ta nói chúng ta sẽ qua sa mạc. Rất mong chúng ta gặp lại nhau và không ai bị mắc kẹt tại đó. Các bạn nhớ mang nhiều nước phòng lỡ khi kẹt giữa sa mạc nhé.


-Ta chắc phải lái  xe xuyên đêm.


-Ta cũng thế: nó là cuộc sống của chúng ta mong Jesus giúp bạn.


Mọi nhà ăn nhanh, rửa sạch dĩa chén. Lều trại đều dẹp xuống. Họ hối hả lên đường. Cho đến khi mặt trời vừa ló dạng, bãi đất dựng trại nay chỉ còn bãi trống không, chỉ còn một ít rác rưởi do đám người bỏ lại.

Dọc theo xa lộ, đoàn xe của di dân giống một đám bọ đang bò theo con đường bê tông chật hẹp, tất cả cùng nhau tiến về phía trước./.


John E. Steinbeck 1939 


DỊCH THUẬT ĐHL 


No comments:

Post a Comment