Nguyễn Ngọc Diệp: SINH KHÍ BAN ĐẦU-TRƯỜNG TƯ THỤC HIỀN LƯƠNG
Trường Hiền Lương Nghĩa Thục và kỷ Niệm Hồi Cư
Đang độ mùa hè nên buổi sáng trời trong xanh và mát dịu nhưng ở giữa đồng không mông quạnh thế này không làm sao nghe được tiếng ve sầu râm ran như ở Huế. Buổi sáng tôi thức giấc khá sớm, xếp chăn mền gọn ghẻ, bỏ vào tủ khóa kín rồi tự chế một tách cà phê thật thơm, ngồi nhâm nhi một mình trong căn nhà tôn vắng lặng này để nghĩ về cuộc đời dâu bể tang điền. Hương vị cà phê giúp tôi nhớ chút ít về những kỷ niệm thuở còn học trung học, đại học Huế. Hồi đó có dịp tôi đi theo đoàn sinh viên Huế ra thăm chiếc cầu Bến Hải oan khiên thuộc lãnh thổ tỉnh Quảng Trị. Chiếc cầu dài chín chục thước tây chia đôi đất nước. Nửa phần về bờ Nam cầu được sơn màu xanh biển đậm. Một nửa ra phía Bắc cầu được sơn màu đỏ tươi chói rực dưới ánh sáng mặt trời mùa hạ làm cho người giàu óc tưởng tượng phải rùng mình vì nghĩ đến máu me và chết chóc, chiến tranh và tàn phá. Hình ảnh và vai trò con sông Gianh (Ranh) ngày xưa đang sống dậy trong lòng tôi. Lịch sử đôi khi cũng chỉ là sự lập lại quá khứ cách này hay cách khác. Giờ đây con sông Thạch Hãn hiền hòa đang đóng vai trò lịch sử thay cho sông Gianh nghiệt ngã ngày xưa và sông Bến Hải mới đây…Tôi hớp thêm một ngụm cà phê đã nguội rồi đứng dậy vươn vai để sửa soạn bắt đầu một ngày làm việc. Thời gian ngắn vừa qua xã Mỹ Chánh nhỏ bé hiền lành trở nên rộn rịp và đầy sức sống. Một số căn nhà tôn nhỏ nhắn gọn ghẽ mọc lên, chợ búa đông đúc và nhộn nhịp. Sự hồi sinh trông rõ nét. Sở dĩ được như vậy cũng nhờ bởi tòa Hành Chánh tạm thời đặt nơi đây, trên ngọn đồi nhỏ phong quang này. Gia đình thân nhân công chức quân nhân giáo chức…đang lần lượt trở về cố quận theo chương trình hồi cư định cư của chính phủ (người ngoại quốc dịch là R.T.V. tức là Returnees to village) do bác sĩ Phan quang Đán trách nhiệm thực hiện.
Đặc biệt trường trung học tư thục Hiền Lương được dựng lên phía bên kia đường lộ gần tòa hành chánh tạm thời. Tuy là một ngôi nhà tôn với ba phòng lớp được phụ huynh học sinh và chính các học sinh đón nhận nhiệt tình. Các lớp học đã tràn đầy những dáng dấp các nữ sinh áo dài trắng thanh thoát với nét mặt rạng rỡ tuổi thanh xuân. Các nam sinh vẫn rộn ràng tiếng cười vô tư của tuổi trẻ cho dù đang đứng trên quê hương tàn tạ và đổ nát. Cái dễ thương của tuổi trẻ ở chỗ luôn luôn vui tươi và lạc quan trong cuộc sống để tiến thủ, để vươn lên cho một ngày mai tốt đẹp hơn.
Trung học Nguyễn Hoàng tại khu Thị Tứ Hải Lăng
Lúc ngôi trường chính của tỉnh là Trung Học Nguyễn Hoàng đang sửa soạn xây cất thì ngôi trường Hiền Lương tư thục này đóng được vai trò giáo dục tuy khiêm nhường nhưng nhiều ý nghĩa. Trong hoàn cảnh hồi cư định cư thiếu thốn mọi bề thì sự hiện diện kịp thời của ngôi trường học này là bước đầu tạo được không khí an bình và củng cố niềm tin của tuổi trẻ vào con đường văn hóa giáo dục để thăng tiến về nhiều mặt. Nhớ lại ngày xưa Mạnh mẫu dạy con (thầy Mạnh Tử) ba lần dời chỗ ở vì không tìm thấy môi trường tốt đẹp thích hợp cho con mình trở thành người đạo đức thanh cao. Lần thứ ba Mạnh mẫu dọn nhà đến chỗ gần trường học. Tại đây bà nhận thấy trẻ em hằng ngày được học hành chữ nghĩa, được nghe thầy giáo giảng giải về đạo lý, về tình nghĩa…bà cảm thấy hài lòng về chỗ ở mới này cho con bà.
Tuy không trực tiếp tham gia vào sinh hoạt của trường này nhưng tôi cũng cảm thấy vui vui và chút kỳ vọng.
Nguyễn ngọc Diệp
Nguồn
Nguyễn ngọc Diệp. Nhớ Về Quảng Trị Xa Xưa- giòng kỷ niệm-. Trung Tâm Văn Hóa Xã Hội Việt Nam Bruxelles, 2000.
Friday, February 11, 2022
Nguyễn Ngọc Diệp: KẾ HOẠCH HỒI CƯ, ĐỊNH CƯ, KHẨN HOANG LẬP ẤP, ĐẠI LỘ KINH HOÀNG
Tác giả: Nguyễn ngọc Diệp (nguyên phó tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị trước 1975)
Thời gian ngắn sau khi Quảng trị (QT) được giải tỏa, tiểu khu Quảng Trị đưa binh sĩ trở lại diện địa để dần dần nắm chủ quyền lãnh thổ với sự trợ lực hữu hiệu của sư đoàn thủy quân lục chiến (TQLC) mà bộ tư lịnh đóng ở một trường tiểu học tại Cửa Việt. Các lực lượng bán quân sự như cảnh sát, cán bộ xây dựng nông thôn cũng theo bước về QT để bình định lãnh thổ.
Trong lúc đó chính quyền quốc gia đang có kế hoạch hồi cư dân QT. Theo đó, đồng bào thuộc các lãnh thổ bờ Bắc Sông Thạch Hãn sẽ được đưa về cư trú tại một phần lãnh thổ của các quận phía nam. Các đơn vị công binh giúp đỡ chính quyền QT trong việc dựng nhiều nhà lều cho dân ở, cày xới ban đầu một diện tích ruộng hai trăm mẫu cho dân. Các kế hoạch làm nông nghiệp khác như mua máy cày, phân bón, lúa giống và các thứ hạt giống khác đang được nghiên cứu. Với các xã ngư nghiệp thì chính quyền sẽ thực hiện kế hoạch thích hợp như cung cấp lưới cá, ghe thuyền, máy đuôi tôm…Song song với việc thực hiện các dự án này để giúp đỡ dân chúng hồi cư thì bộ xã hội vẫn đảm trách việc trợ cấp gạo cho đồng bào. Trong lúc đó, tại các trại tạm cư ở Đà Nẵng việc trợ cấp cho gần hai trăm nghìn đồng bào QT tị nạn cũng phải tiến hành song song với kế hoạch khẩn hoang lập ấp. Tòa Hành Chánh phát động chiến dịch khuyến khích đồng bào tạm cư hưởng ứng kế hoạch khẩn hoang lập ấp tại các vùng đất tỉnh Bình Tuy, Long Khánh, Suối Dầu…Tại đây phủ quốc vụ khanh đặc trách Khẩn Hoang Lập Ấp (K.H.L.A.) đã cho làm nhà, đào giếng, cày xới đất hoang, cũng như đã có sẵn ngân khoản đặc biệt để giúp đỡ dân chúng xây dựng cuộc đời mới…
Sau khi hiệp định Paris ký kết (27.01.1973) tình hình quân sự có phần dịu hơn nhưng vấn đề chính trị thì rất tế nhị, có khi cũng gay gắt! Cả hai phía liên hệ trực tiếp trong cuộc chiến và có chữ ký trong hiệp ước đình chiến đều cố gắng chiếm giữ ưu thế chủ quyền trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Dù gì thì nội dung của hiệp định này cũng đã mang nhiều thất lợi cho V.N.C.H. Điều lạ lùng là sau khi hiệp ước được ký kết tại thủ đô Paris thì phía chính quyền V.N.C.H. vẫ im lặng trong lúc đài phát thanh Hà Nội của cọng sản Bắc Việt đưa ngay lời bình luận và cho rằng đây là một sự thắng lợi to lớn của phe họ, đương nhiên là một sự thất bại nặng nề của phía đồng minh Hoa Kỳ và V.N.C.H. Để cố gắng giành dân và giữ đất ở miền Nam, chính quyền V.N.C.H. phát động chiến dịch “cắm cờ”. Theo đó thì vùng đất nào có nhà dân cắm cờ quốc gia thì được kể là thuộc quyền kiểm soát của V.N.C.H. Thời gian đó, đồng bào tạm cư cũng thực hiện chiến dịch này bằng cách cắm cờ trên nóc các dãy nhà của trại tạm cư!
Thời gian ngắn sau đó tòa hành chánh QT tạm thời với nhiều dãy nhà tôn cao được dựng lên tại Xã Hải Chánh để bắt đầu điều hành công việc hành chánh cho đồng bào sắp lần lượt đưa về theo kế hoạch Hồi Cư Định Cư (bấy giờ phủ quốc vụ khanh đặc trách kế hoạch khẩn hoang lập ấp được nâng lên hàng phủ phó thủ tướng đặc trách kế hoạch hồi cư định cư và bác sĩ Phan quang Đán là Phó thủ tướng). Phó tỉnh trưởng QT vẫn trách nhiệm công tác cứu trợ đồng bào tại các trại tạm cư ở Đà Nẵng. Đại tá Hà Mai Việt thay thế Đại Tá Phan Bá Hòa trong chức vụ tỉnh trưởng. Suốt cả mùa hè, đại tá Việt cố thực hiện nhiều công tác hạ tầng cơ sở như làm đường, bắc cầu, xây dựng một số công sự an ninh diện địa cần thiết cho tiểu khu. Thời gian này tôi làm chánh văn phòng tòa hành chánh và công việc thì lu bù. Tuy nhân viên các ty sở chưa về lại QT (đúng hơn là Mỹ Chánh) để làm việc nhưng các trưởng cơ quan thì có mặt tại đấy để sắp đặt từ từ công việc cần thiết. Một lần bộ chỉ huy tiểu khu họp kín về công tác bình định và an ninh cho toàn lãnh thổ tỉnh dưới sự chủ tọa của Đại tá Việt. Các sĩ quan trưởng ban của tiểu khu hiện diện với vũ trang đầy đủ sẵn sàng. Tôi là viên chức dân sự duy nhất của tỉnh tham dự buổi họp. Tôi mặc sắc phục của cán bộ xây dựng nông thôn, áo quần bà ba đen, đi giày lính, đội mũ sắt và mặc áo giáp. Cây súng ngắn bỏ trong cặp da. Cuộc họp được tổ chức trong một ngôi nhà xưa đổ nát nhưng còn khoảng không gian tạm đủ cho việc hội họp. Nhìn mọi người hiện diện tôi cảm thấy rất quen thân và gần gũi cho dù có một số sĩ quan chưa bao giờ tôi có dịp gặp mặt. Tôi chợt hiểu rằng cảm giác gần gũi và thân mến này đến từ những người đang làm việc cho mục đích duy nhất; đó là cố gắng tái tạo sự an ninh và sinh hoạt cho đồng bào hồi cư. Tự nhiên tôi cảm thấy thú vị và phấn khởi. Thoáng chốc tôi sực nhớ anh chàng Dũng lãng mạn đi làm cách mạng trong cuốn truyện Đôi Bạn của nhà văn Nhất Linh. Nhưng mà Dũng thì có hình ảnh của Loan để mà nghĩ đến, mà thương nhớ xa xôi! Gần hai tháng sau khi cơ sở tạm thời của tòa hành chánh xong, nhân viên các ty sở trở lại cơ quan mới để điều hành công việc. Điều làm mọi người ngạc nhiên đến sửng sốt trên đường trở về QT, đồng bào thấy hai bên bờ đường lộ có vô số vỏ đạn đại bác lớn nhỏ, hàng đống dài, đôi khi cao cả thước tây. Các vỏ đạn màu vàng tươi phản chiếu ánh sáng mặt trời làm cho con mắt thấy một trời tỏa sáng rực rở chói chan. Xe chạy một khoảng đường nhỏ, hình ảnh tương tự hiện ra trước mắt. Thêm nhiều xác xe tăng, xe nhà binh các loại đang nằm ụ bên đường, rải rác ít nhiều chiếc mũ sắt nằm hờ hững đó đây. Tôi liên tưởng xa xôi đến các chiến sĩ điều khiển các quân xa này, các chủ nhân của các chiếc mũ sắt kia, hiện giờ ở đâu, có được an bình êm ấm với người thân không hay đã âm thầm trở về lòng đất mẹ sau lần hy sinh cuối cùng cho từng tấc đất của quê hương! Xe tiếp tục hướng tới trước. Đây rồi đoạn đường gần chiếc cầu dài oan nghiệt đang hiện ra trước mắt. Nơi đây, năm ngoái đã diễn ra cuộc chết chóc vô cùng thảm thương cho người dân vô tội. Bây giờ đây, để ghi nhớ đoạn đường oan nghiệt này, lòng đường được ghi thêm hai hàng chữ sơn rất rõ: ĐẠI LỘ KINH HOÀNG (Avenue of Terrors)! Một số các nữ nhân viên trên xe trông thấy chứng tích ấy thì cúi mặt lấy khăn mù xoa lau mắt!
Như vậy trong lịch sử cận đại này, QT có thêm một tên đường mang chứng tích chiến tranh ngoài tên Con Phố Buồn Hiu (Street without joy hay la rue sans joie) đã có trước đây nối liền quận Hải Lăng (QT) với quận Phong Điền (Thừa Thiên), theo ven biển phía đông! Qua chiến cuộc, Con Phố Buồn Hiu này cũng làm bị thương một số nhà báo, trong đó có Bernard Fall, phóng viên chiến trường nổi danh người Áo! Anh này sau đó bị trúng mìn Việt Cộng nát bụng chết tại vùng núi Thừa Thiên Huế vào tháng hai năm 1967.
Nhìn đống đồng phó sản của súng đạn, tôi mơ màng nghĩ rằng nếu chính phủ có kế hoạch xuất cảng các đồ kim loại phế thải này thì dân chúng hồi cư định cư QT cũng thêm được ít nhiều phương tiện sống trong lúc khó khăn nhiều bề. Xe của tòa hành chánh đi thẳng đến thị xã QT. Không ai có thể định hướng được các cơ sở cũ một cách chính xác. Tòa hành Chánh ở đâu đây, một công chức nhìn tứ bề ngẩn ngơ buộc miệng hỏi! Nhiều ý kiến đưa ra! Trường trung học Bồ Đề chỉ còn một trụ cổng với bảng hiệu đầy vết đạn treo tòn teng. Trước mắt tôi, cổ thành hay trại Đinh Công Tráng hình vuông với chiều dài gần 600 thước tây, cao 5 thước giờ đây chỉ còn lưu lại một dấu tích: một phần bức tường cổ cao khoảng hai thước rưỡi, rộng hai ba thước với nhiều viên gạch sứt mẻ đang đứng chơ vơ bên đống gạch vụn! Bờ sông bị cỏ hoang cao che khuất. Thật khó nhận ra nếu không có dòng nước sông Thạch Hãn đang lững lờ óng ánh ngoài kia…Ôi Quảng Trị!
Nguyễn ngọc Diệp
Nguồn
Nguyễn ngọc Diệp. Nhớ Về Quảng Trị Xa Xưa- giòng kỷ niệm-. Trung Tâm Văn Hóa Xã Hội Việt Nam Bruxelles, 2000.
Monday, February 14, 2022
Nguyễn Ngọc Diệp: THĂM DÂN
THĂM DÂN
Tác giả: Nguyễn ngọc Diệp
Thời gian đảm trách chức vụ mới, Phó tỉnh trưởng, vì có đầy đủ thẩm quyền nên tôi giải quyết công việc hành chánh tốt đẹp. Riêng việc thực hiện kế hoạch hồi cư định cư cũng đạt được kế hoạch nhưng vẫn không tạo cho chính tôi sự an tâm về cuộc sống của đồng bào định cư (thành phần dân chúng các quận đã mất đất, tạm sinh sống trên lãnh thổ các quận phía nam sông Thạch Hãn) vì hoàn cảnh tổng quát tạo ra đời sống đó.
Với các quận hồi cư, nghĩa là đồng bào trở về làng cũ thì đời sống đã tái lập tương đối có triển vọng. Các nhu cầu cho việc canh tác trồng trọt được giúp đỡ thích ứng. Cụ thể thì các xã nông nghiệp thuộc quận Hải Lăng, Triệu Phong và một phần Mai Lĩnh đã được cung cấp máy cày, loại lớn, nhỏ, lúa giống, phân bón loại urea và mixed, thuốc sát trùng v.v…Đồng bào định cư và hồi cư không có nhà ở thì đã được cung cấp gỗ làm nhà xẻ sẵn theo kích thước, tôn hạt mè, đinh, bù lon…Đồng bào ngư dân được cung cấp ghe thuyền, lưới dã cào loại lỗ lớn, nhỏ, máy đuôi tôm. Một số cá nhân có hiểu biết về máy móc, được khuyến khích mở các tiệm cơ khí nhỏ, dưới dạng hợp tác xã tự nguyện, để sửa chữa và bảo trì các máy đuôi tôm, máy cày…Hệ thống đường sá cầu cống được sửa chữa, tân lập. Hệ thống y tế cũng được chú ý hơn. Các chi y tế cấp quận tăng cường nhân số thuốc men, các trạm y tế cũng gia tăng theo nhu cầu dân chúng ở các xã.
Đôi lần tôi đến thăm một số xã nông nghiệp hồi cư thuộc quận Hải Lăng như Xã Hải Chánh, Hải Văn, Hải Nhi. Các xã trưởng cho biết đời sống đồng bào đang ổn định dần. Tôi đến thăm một cánh đồng lúa. Từng chọm lúa thần nông mập mạnh đầy sức sống chen nhau trên đám ruộng xanh rì bát ngát đang xô nhau về phía trước theo cơn gió hiền hòa đồng nội, tạo nên những làn sóng mềm mại, phát tiếng rì rào êm tai. Tất cả đó hứa hẹn một mùa gặt rộn ràng náo nhiệt. Tôi bỗng nhớ câu kết luận của bài học thuộc lòng Nhành Lúa Mới, tác giả vô danh, trích từ tờ báo Tin Tức nào đó: trong lúc bom đạn tơi bời gieo rắc tang tóc và đổ nát thì ở đây người dân quê Việt Nam vẫn âm thầm gieo mầm sống… Tôi cũng biết là các hoa màu phụ như khoai lang, khoai tía, khoai từ, sắn (khai mì), bắp, các loại rau, trái như bí đao, bí ngô (bí rợ hay bí đỏ), các loại đậu phụng (phọng), xanh, trắng, đỏ, mè…cũng được mùa nhờ khí hậu điều hòa nắng mưa thích hợp. Các làng xã có nghề truyền thống cũng sinh hoạt bình thường như làng Phước Tích nổi tiếng chằm nón (làm nón), làm đồ gốm. Tôi mừng lắm.
Một buổi xế chiều mùa hè, Trung Tá Kỳ tỉnh trưởng và tôi xuống thăm xã ngư dân Triệu Vân hồi cư thuộc quận Triệu Phong. Vì cố tình không báo trước cho chính quyền xã nên chúng tôi chỉ gặp vài viên chức xã đang giải quyết việc giấy tờ cho dân tại trụ sở xã. Thấy chúng tôi tới các viên chức tỏ ra vui mừng và nhiệt tình trình bày thực trạng vấn đề hành chính, đời sống hiện tại và triển vọng của ngư dân địa phương. Ông Trần Táo xã trưởng của xã này đang bận đi làm cá ngoài biển cùng gia đình con cháu, mặc dầu đã 82 tuổi. Tuy là xã trưởng được hội đồng nhân dân xã bầu lên (hội đồng này do dân bầu trực tiếp) nhưng thực tế chính ông xã trưởng là tộc trưởng của họ Trần, họ lớn, đông con cháu nhất xã. Các cử tri trong xã là con cháu gần xa của ông nên uy tín của ông khá lớn, tiếng nói của ông có giá trị thi hành với đồng bào trong xã. Chúng tôi rời trụ sở xã và đi vòng men theo bờ biển. Trời trong, nắng ấm, gió mát. Không khí biển mang cho tôi một cảm giác thoải mái và thanh thoát. Như hai du khách nhàn nhã trong cõi thanh bình, chúng tôi thả bộ đến gần một bãi cát đang có nhiều người ! Cũng nói thêm rằng trung tá Kỳ tuy gốc gác là thủy quân lục chiến nhưng từ ngày nhận chức vụ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng thì ông chỉ mặc áo bộ binh, nghĩa là màu xanh lá cây đậm, nôm na là màu cứt ngựa chứ không phải màu rằn ri. Tôi là viên chức hành chánh thường mặc loại áo gọi là “áo bốn túi”. Tay áo ngắn thích hợp khí hậu nóng. Những lúc làm việc hay họp hành anh em hành chánh thường cũng sử dụng loại y phục này thay bì “bộ đồ vét” vì gọn gàng và trông cũng “đàng hoàng”. Chúng tôi đi chậm rãi song song để vừa được thư dãn chút ít vừa để trao đổi vài mẩu chuyện nhẹ nhàng. Hai tay thường vòng sau lưng như một thói quen. Chính tôi không biết “nhiễm” thói ấy từ độ nào ! Chúng tôi nhìn tới trước, thấy các ghe đánh cá gắn máy đuôi tôm từ từ tấp vào bờ sau lần ra khơi từ sáng sớm. Thân nhân đang chạy nhanh đến các ghe máy để phụ kéo lên bờ số lượng cá đánh được. Nhìn các thanh niên ngư dân đánh trần với làn da nâu đậm rắn chắc, bắp thịt nổi cao phản chiếu ánh trời chiều, tiếng cười nói vô tư, tôi cảm nhận được sức sống mãnh liệt của đồng bào ở đây. Bỗng nhiên tôi sực nhớ bài thơ Tế Hanh tôi học từ bé về tình cảm mặn mà của trẻ em làng ngư dân: Làng tôi vốn làm nghề chài lưới. Nước bao la cách biển nửa ngày sông. Khi trời trong, gió nhẹ sớm mai hồng, Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá…nay xa cách lòng tôi buồn tưởng nhớ…nghe chất muối thấm dần trong thớ vó. Tôi cũng nhớ đến nhạc sĩ Phạm Đình Chương trong bài hát Tiếng Dân Chài và cảm thấy một cảnh tượng vừa đẹp mắt vừa thơ mộng an bình thích hợp với cảnh sống của ngư dân làng Triệu Vân này: đêm dâng với ngọn triều, dô hò dô, kéo thuyền nhổ neo, vi vu buồm lên cao, dô hò dô, sóng reo dạt dào…Anh em cùng ra đây, Con thuyền đây tay chèo tay lái, Thấy đời nhọc nhằn mà vui..Tôi cảm thấy dâng lên trong lòng niềm thương yêu đời sống vô tư đơn giản của đồng hương ngư dân. Họ thường tỏ ra vui tươi với công việc, với nhọc nhằn. Họ ít thích sự nhàn hạ vô lối. Chính họ đang lưu trử và biểu hiện tâm hồn Việt Nam chất phát, siêng năng, nồng đượm tình quê hương. Nhưng cũng chính họ luôn luôn bị lừa phỉnh hoặc đe dọa bởi những mưu gian quỷ kế của bọn người cọng sản vong bản trong việc từng bước thực hiện một chủ thuyết ngoại lai phản dân tộc với những chiêu bài quái lạ. Họ chỉ cần có cơm ăn áo mặc, đau yếu có thầy, thuốc. Con cái có nơi chốn học hành nên người, sống theo đạo lý truyền thống tổ tiên, đóng góp phần mình cho thôn xóm làng nước. Họ không mơ ước viễn vông, mà sống thực tế. Họ không cần biết Marx, không cần hiểu chủ nghĩa cọng sản, chẳng thèm biết thế giới đại đồng…Nhưng nếu muốn thì cũng nên nhớ lại chính Marx, tổ sư của cái gọi là chủ nghĩa cọng sản, đã bị đả kích nặng nề bởi Bruno Bauer, cũng gốc Đức và sống đồng thời với Marx, chết 1882, trước Marx một năm. Thời đó, Bauer đã phân tích và nhận định rằng nếu học thuyết của Marx được áp dụng vào thực tế thì đó là một tai họa lớn lao cho nhân loại. Nhà triết học này đã nói đúng…Bỗng Trung Tá Kỳ quay mặt phía tôi nói điều gì tôi không nghe rõ.Tôi hỏi lại thì được hiểu đó chỉ là câu trao đổi vui miệng trong những lúc thong dong ngắn ngủi của chúng tôi. Thói quen thông thường của hai chúng tôi là đi song song nói chuyện và ít khi nhìn nhau đối mặt. Tôi kể cho Trung Tá Kỳ nghe điều nhận xét thật nhỏ của tôi trong thời gian làm việc là dân chúng các xã ngư dân rất ít khi kiện tụng nhau mà thường đối xử rất tình nghĩa. Có lần, một ông trưởng ty lớn tuổi tâm tình với tôi rằng ông rất hãnh diện về gốc gác ngư dân của ông cho dù ông được học hành để làm công chức. Ông giải thích rằng đồng bào ngư dân có đời sống khá nhờ biển cả. Biển cả là ơn huệ chung của trời đất, không dành riêng cho ai nên không ai có thể tranh dành. Khi biển lặng gió êm thì cùng nhau ra khơi. Biển động sóng gầm thì ở nhà vui chơi với gia đình. Giản dị thế đó. Ông kết luận ngư dân chúng tôi không tham lam ích kỷ nhờ hoàn cảnh sống thiên nhiên. Từ đó tánh tình trở nên rộng lượng và ngay thẳng, xem như là một tập khí tốt đẹp. Cũng nhờ gió biển mà dân chúng ít bệnh tật…Tôi đang nghĩ miên man thì ông xã trưởng Trần Táo chạy đến trước mặt chúng tôi chào mừng thật nhiệt tình. Ông ái ngại nói là không nhận được tin của tỉnh nên không biết để tiếp đón kịp thời và đúng mức, xin bỏ qua. Chúng tôi vui vẻ bắt tay ông cùng nhiều đồng bào đến chào. Ông xã trưởng trình bày đại cương đời sống hiện tại và triển vọng tốt đẹp vì là ngư dân, bao giờ cũng thế, chúng tôi sống nhờ biển, không có gì để lo lắng. Vấn đề an ninh cũng tương đối được…Dứt câu ông nói một thanh niên cháu ông mang đến một con cá hồng biển khá lớn. Ông cho biết mùa hè là mùa của cá này. Có con nặng hai kí lô, con này nặng gần ba kí, thật đặc biệt. Chúng tôi gửi lại một số tiền gọi là cám ơn lòng của ông. Chúng tôi bắt tay chào ông xã trưởng cùng mọi người rồi lên xe ra về. Ngồi trong xe, tôi cảm thấy yên lòng vì đời sống các xã ngư dân hồi cư đã tái lập và bình thường hóa nhanh chóng. Thật đáng mừng. Chúng tôi sống nhờ biển, bao giờ cũng thế. Câu nói còn vang vọng trong lòng tôi. Đúng rồi, biển này hiền lành nuôi sống ngư dân, đâu có phải là đại dương bi thảm, Oceano Nox mà thi sĩ Victor Hugo than thở vào tháng bảy năm 1836 thay cho các quá phụ của những thủy thủ đã bạc mệnh trên biển cả !
Công vụ của tôi trôi tròn theo ngày tháng. Một số khó khăn và trở ngại được giải quyết một cách khôn khéo mà vẫn giữ được tánh chánh đáng. Những kinh nghiệm thủ đắc trong thời gian qua cũng giúp tôi khá nhiều trong vấn đề giao tiếp tế nhị và đôi lúc phức tạp.
Nguyễn Ngọc Diệp
No comments:
Post a Comment