Wednesday, January 24, 2024

HỒI KÝ ĐHL- ĐÓNG QUÂN TUYẾN BIỂN (FULL)



NHỮNG LẦN CÃI TAY ĐÔI TẠI TUYẾN NGƯNG BẮN HAI PHE


TUYẾN  VĨNH HÒA -THANH HỘI -LONG QUANG XÃ TRIỆU VÂN QUẢNG TRỊ


 VỤ CHIẾC TÀU TIẾP TẾ CỦA MIỀN BẮC BỊ BẮN CHÌM NGÀY 20.6/1974

 

em gái hậu phương trên cầu Ba Bến 1969 
(trái đại úy Lê kim Chung (trái) đại đội trưởng ĐĐ 2 và Đại Úy Trần quang Hiền trưởng ban 3 tiểu đoàn 105 lúc còn trung úy)


Xã Triệu Vân, Triệu Phong Mùa Hạ 1974


Khoảng hè 1974 Tiểu đoàn 105 ĐPQ / TKQT được lệnh rời Ba Bến về tuyến biển. Đây là lần đầu tiên tôi biết được chuyển quân là gì. Toán xe quân vận của TKQT ra đậu liên tục nhau từ múi cầu Ba Bến đổ dài theo tới hướng cầu Tham Triều. Tôi hết  ngồi hàng ngày ‘bó gối’ trong cái hầm chật chội đợi lệnh đại đội từ cái máy PRC 25 ngày đêm kêu “sè sè” liên tu bất tận. Giờ phút khoác lại ba lô lên vai cùng trung đội tới nhận vị trí xe mình.


                thôn Tham Triều sau 1975

Giã từ cái cầu sắt nhỏ bé Tham Triều, hiếm tiếng xe qua. Giã từ cái rạch nhỏ nước chảy ra sông Vĩnh Định bên dưới hàng ngày vài người lính bỏ cái nơm cá kiếm ít chất tươi. Tôi phải giã từ cái thôn mang tên Tả Hữu buồn hiu, vài cái nhà đơn sơ vừa hồi cư mới lợp tranh mới xen kẻ vài tấm tôn lộn xộn. Con đường và cánh ruộng của Tham Triều Nại Cửu, giữa tấm ruộng  là xác chiếc trực thăng Cobra bị bắn rơi nằm đó không biết đã mấy năm?


Tiểu Khu QT đóng tại Diên Sanh Hải Lăng 1973-1975

Ra đơn vị, chỉ mấy tháng nằm ở đây, cạnh làng ngoại Nại Cửu nhưng bên kia sông là của họ theo tuyến phân chia ngưng bắn 1973. Làng ngoại bên kia sông, chỉ những bờ tre thỉnh thoảng vang vang tiếng kẻng một thứ âm thanh để biết rằng đó nay là đất ‘của họ’. Bên này sông là những toán lính, màu ô liu xen lẫn màu rằn ri của các đại đội TQLC cùng những làng dân vừa hồi cư chưa thể tạo được một nếp sống no đủ an bình của một đất nằm giáp với TUYẾN PHÂN CHIA.


Đoàn xe quân vận chạy không lâu thì đổ quân tại bãi biển của thôn Ba Lăng. Bãi biển tràn ngập lính 105 đang xuống. Đơn vị nào hoán chuyển đơn vị nào thì đã có trên lệnh hành quân rồi. Hai bộ chỉ huy Tiểu đoàn 105 và 120 hoán chuyển nhau tại Thôn Ba Lăng này. Khẩu đại bác 106 ly trên chiếc xe jeep của TQLC vẫn nằm sát đó hướng ra biển.

Đại đội 2 chúng tôi không dừng lại ở đây, tiếp tục di chuyển theo mép biển đi ngược ra hướng tây bắc tức là Cửa Việt. Từng trung đội đi theo nhau. Hướng ra đại dương, biển khơi lặng ngắt chẳng hề có bóng tàu và thuyền nào cả. Mấy con chim hải âu vần vũ bay theo toán lính. Bờ biển hoang sơ, phía trong lác đác vài khóm cây dương, gầy gò thưa thớt. Vài triền cát trắng xen kẻ với cát vàng, một hai cái bàu nước lợ to nhỏ cảnh vật buồn tênh không một mái nhà. Vài ngọn gió mùa hạ đang thổi ra tận biển làm tung lên nhiều đám bụi cát trắng mờ trong xa. Khoảng chiều trời mới trở nồm gió sẽ thổi vào lại đất liền, đó là lúc đại đội 2 chúng tôi đã đến điểm hẹn đó là THÔN THANH HỘI.

ĐƯỜNG VẼ MÀU ĐEN LÀ ƯỚC TÍNH TUYẾN PHÂN CHIA 2 PHE SAU 1973, TUYẾN BIỂN CỦA VNCH CHỈ NGANG THÔN VĨNH HÒA PHƯỜNG (dấu vẽ tròn) CỬA VIỆT THUỘC PHÍA MIỀN BẮC  DO BỊ MẤT ĐÊM NGƯNG BẮN  27/1/1973

Các đơn vị của Tiểu Đoàn 120 bắt tay, giao chốt lại cho chúng tôi để lui lại Thôn Ba Lăng. Mặt người nào xem chừng vui vẻ như sắp đi phép không bằng. Tôi là trung đội trưởng nên hoán chuyển cho chốt trung đội. Đáng tiếc người sĩ quan trung đội này tôi không quen. Mấy thằng bạn từ xóm Cửa Hậu, thôn Đệ Tứ QT đa số lên đường tòng chinh nhưng chẳng có đứa nào về tiểu đoàn 120 này cả. Thằng Nguyễn Văn Bốn thì phục vụ Liên Đoàn 15 BĐQ, Trần Tài cũng xóm Hậu nhưng hắn ở Tiểu Đoàn tân lập 126 sau này thuộc Th Tá Phan bá Ân. Thái Đào thì về phục vụ Tiểu Khu Thừa Thiên, Lê xuân Hùng nó thuộc ngành Quân Báo giờ ở đâu trong Nam…

Dòng suy nghĩ miên man chợt ngưng hẳn khi tôi đã vào cái hầm của chốt Trung Đội, đối diện với phe bên kia không đầy 100 mét. Những đoạn rào bằng concertina sơ sài, vài ngọn cờ vàng ba sọc đỏ trên chốt của tôi và các chốt tiểu đội. Tôi hướng tầm mắt vào Ban chỉ Huy Đại đội 2. Quang cảnh chỉ là vùng cỏ hoang không một bóng cây không hề một bụi rậm nào nên không che được tầm nhìn. Cánh đồng hoang thỉnh thoảng có vài vũng nước lợ, một chốn quạnh hiu không một bóng nhà chạy xa tít vào trong xa đó là Thôn Long Quang, nơi đó có đơn vị TQLC đang trấn giữ.  Lê văn Linh khóa 9/72, người Huế, trình diện đại đội trưởng Lê kim Chung xong được giữ chức vụ trung đội trưởng trung đội Nặng. Trung đội NẶNG là gì? Chẳng qua là trung đội mang cối 60ly ở với Ban Chỉ Huy Đại Đội vậy thôi. Tôi chợt cười thầm, do ý nghĩ nó coi trung đội NẶNG nên thằng Linh chẳng cao hơn ai cả, người thấp vậy nhưng cái miệng thì nói cười huyên thiên xem chừng vui vẻ nên ai cũng mến. Hai trung đội trưởng khác cũng là người Huế. Thằng Tùng người trầm lặng ít nói, nghe đâu sau này hắn bị mù và từ đó biệt tăm hơi. Thằng Ngọc người nhỏ con, hắn bị bắt làm tù binh sau này với người viết.

Đặt ba lô xuống xong chúng tôi lo chuyện nấu ăn. Sau Hiệp Định 1973 đây là TUYẾN NGƯNG BẮN 2 PHE nên không còn thứ gì gọi là “ngụy trang ẩn nấp” nữa. Bên mình làm gì phía bên kia đều thấy. Có điều lạ, các chòi gác phía bên kia thỉnh thoảng lại nhô lên cùng cờ MTGPMN nhưng ít khi thấy người. Có thể họ di chuyển dưới giao thông hào nối với các điểm gác. Phía bên mình thì lộ thiên với những chốt gác, lính mình chẳng có sự liên lạc với nhau bằng giao thông hào di chuyển thì ‘lộ thiên’ phe kia làm sao mà không thấy. Nước và củi lửa là 2 thứ lính cần. Nước ngang với thôn Thanh Hội còn cách xa biển khoảng một cây số thì có thể dùng nước lợ. Đào xuống chừng một mét giữa đồng cỏ trũng này là có nước lợ thôi. Nước lợ là nước pha mặn không “ngọt ngào thơm tho” như nước trong đồng bằng được. Dù sao ra các hàng phi lao gần bờ biển chúng tôi có thể vơ được một mớ củi dương làm chất đốt nấu cơm. Chỉ nồi cơm làm căn bản. Cái nồi nhôm đen sì người lính nấu ăn của trung đội lúc nào cũng tòn ten đeo bên ba lô sao mà “ thân yêu” đến thế! Lon thịt heo hay lon thịt ngựa quân nhu nấu loãng, còn ruốc và bột ngọt thì bỏ thêm. Cái song méo mó không nắp, dùng kho đồ ăn, Binh Nhất Thế, lính truyền tin khi nào cũng mang một bên cái máy. Chỉ mang giúp cho hạ sĩ Sơn nấu bếp thôi, nhưng không giúp thì lấy gì nấu ăn. Về vùng này rồi, ăn tạm trước đã, ngày mai tha hồ đi kiếm cá. Hạ sĩ Sơn gắng phân bua, giải thích giúp “lên tinh thần” cho ban chỉ huy Trung đội 3 của tôi.


Hoán chuyển quân xong, một hai ngày sẽ có xe tiếp tế ra. Chúng tôi sẽ có ít chất tươi, mười ngày một lần không đến nổi phải lo lắm. Rời tầm mắt nhìn về phía bên kia, ngoài các điểm gác hình nón nhô lên sau họ là gì cả một màn bí mật. Sau lưng, theo lời kể của Sơn các hố nhỏ mùa khô, nước đang rút dần nơi đó sẽ có vô số cá nước lợ. Lớp cá này sẽ hết đường chạy, chúng là thức ăn cho lính nếu chúng tôi siêng năng.


Tôi coi lại nhiệm vụ kiểm soát các lá cờ bên mình. Tuyệt nhiên không thêm mà chẳng bớt. Chớ nghĩ đến chuyện 'ưa bao nhiêu cờ là cắm', bên kia theo dõi chúng ta ‘từng li từng tí’. Họ có thể đếm “số nón sắt” của phe mình để biết quân số. Sự hoán chuyển quân này không hề là màn hoán chuyển bí mật, do chuyển quân ban ngày. Dù sao tôi cũng an tâm khi nơi đây là TUYẾN 2 BÊN thì phía họ không thể vi phạm để làm bộ mặt bên ngoài. Ủy Ban Đình Chiến ICCS đang đóng ở Mai Lĩnh gần ngay căn cứ MACV cạnh trường cũ Nguyễn Hoàng năm xưa...  

 

 PHẦN 2


CUỘC CÃI TAY ĐÔI GIỮA LÍNH ĐỊA PHƯƠNG QUÂN Với CHÍNH TRỊ VIÊN VC BÊN KIA TUYẾN


 Khoảng hai tuần trôi qua, cơ ngơi của trung đội 3 của tôi coi bộ ổn định.  Ổn định ở đây có nghĩa là một tiểu đội khoảng 6 hay 7 người, tuy bằng một nửa cấp số trên lý thuyết nhưng còn đòi hỏi chi hơn. Trung đội TQLC có may ra được bốn chục với quân trang vũ khí đầy đủ. Chúng tôi là người lính Địa Phương Quân trên thương sao thì “nhờ” đó chẳng đòi hỏi chi hơn. Hình như chịu đựng và im lặng là bản tính cố hữu của thứ lính “Địa”. Thế là mấy ông sĩ quan trẻ ra trường, về Tiểu Khu thì coi như bỏ lý thuyết “cấp số” này nọ lại cho quân trường. Thực tế là thực tế thôi. ‘Một buổi sáng chợt có lính tiểu đội vào báo gấp cho tôi:

-       -Chuẩn úy, bên kia họ muốn nói chuyện với chuẩn úy?

Tôi vừa kinh ngạc vừa lạ lùng trong người. Đóng chốt giữa tuyến ngưng bắn Hai Phe đây là lần đầu tiên tôi gặp trường hợp như vậy đó là GẶP NGƯỜI BÊN KIA!

Tôi tuy không mang súng, nhưng không giấu được hai cái “lon quai chảo” đen sì trên cổ áo. Thời đó sao có cái mốt may luôn cấp bậc vào cổ áo thật là khó xử. Còn cái luật quân phong quân kỷ VNCH lại may cả tên “to tướng” trên túi áo phải, biết giấu chỗ nào?

Tôi đành mặc vậy theo lính mình đi ra phía hàng rào chia đôi hai phe. Điều đặc biệt khi gặp nhau, hai bên không có ai mang vũ khí.


Người bộ đội kia dù mang cái huy hiệu nửa xanh nửa đỏ trên cái nón cối nhưng không giấu được cái giọng Nghệ An của mình. Anh ta xem chừng xấp xỉ tuổi tôi, nước da không phong trần lắm, có thể nói hồng hào là đằng khác. Có ‘gõ đầu’ tôi cũng đoán được là một ‘chính trị viên’ đây rồi. Đôi mắt người bộ đội này xem chừng khó quyết đoán, hình như ưa lãng tia nhìn của tôi.

    -Chào anh, tôi đại diện cho MTGPMN tại tuyến này, muốn gặp anh nếu anh là cấp chỉ huy thì không được treo thêm cờ…như vậy là VI PHẠM


    -Hình như anh đã nói lầm. Đơn vị tôi chỉ duy trì nguyên trạng chẳng có lệnh nào treo thêm cờ cả. Anh cho tôi biết chứng cớ cụ thể ngay lập tức?


Thú thật viên cán bộ này xem chừng nói láo và hình như anh ta muốn xem “mặt mũi” tôi và dò xét tình hình thôi. Sự thật đổi quân về đó tôi chẳng có lệnh hay nhận lá cờ vàng của VNCH nào cả…


Họ muốn gì đây?


Sau lưng người đó là năm sáu thiếu nữ. Mấy nàng kia chuyện trò to nhỏ với nhau, tôi nghe lao xao là giọng nói Quảng Trị chứ không phải Nghệ An hay Hà Tỉnh nào cả. Có vài nàng vừa nói hình như vừa liếc trộm nhìn tôi. Họ vẫn giữ khoảng xa với viên bộ đội này, đủ biết vai vế của anh ta không phải tay vừa.


Ôi toán văn công hay binh vận đây mà.


Người chính trị viên đứng bên hàng rào concertina, một thứ hàng rào chiếu lệ thôi chứ không ngăn cản được chuyện gì từ vượt qua hay tấn công chẳng hạn…


    -Chúng tôi một là không hề treo cờ thêm và nếu có lá cờ hư nát chúng tôi vẫn có quyền THAY THẾ, DUY TRÌ NGUYÊN TRẠNG.


Người chính trị viên kia vẫn tiếp tục

    -Phía các anh liên tục vi phạm hiệp định. Chúng tôi cực lực lên án do phía ngụy quyền Sài Gòn đã đưa tới 500 chiếc "ép năm e" (F 5E) ra tới Sân Bay Đà Nẵng để mưu đồ chống lại CM phá vỡ hòa bình ngưng bắn.

.

   chiến đấu cơ phản lực siêu thanh F 5E tại phi trường Đà Nẵng 1973

    Tôi thực sự vừa tức cười vừa "choáng" hay ngán ngẩm cho cái miệng nói như con “VẸC” của tay bộ đội này. Thật là láo khoét, Không quân VNCH chỉ mong có được 20 F-5 là mừng rồi. Ngay cả nước Mỹ cũng lấy đâu ra 500 chiếc F5E. Bọn họ, Đảng bảo sao thì nói lại y chang chứ chẳng biết trời trăng mấy tuổi...


 Ôi 'cha nội' ơi,  500 chiếc F5E, lần đầu tiên trên đời tôi nghe con số từ miệng một ông VC nói ra như. Anh ta nhắc F-5 E làm chi cho tui thêm rầu; đó là một năm mơ mộng vừa chạy giặc vừa chạy đôn chạy đáo của tôi. Nộp đơn khám sức khỏe tại SG, và cuối cùng 'không lại hoàn không "leo cao té nặng" rớt xuống làm "ông Địa" hồi nào chẳng hay. Hôm nay anh chàng chính trị viên này nhắc lại làm chi vừa kinh ngạc vừa rầu cho mình. Về lại đây nơi tuyến đầu quê hương giờ đứng trước một ông VC nói láo chẳng hề ngượng mồm. Ánh mắt anh ta hình như một lần nữa lãng không nhìn tôi.


            -Tôi đứng nói chuyện với anh là nói chuyện treo thêm cờ có hay không? Các anh vu khống chuyện này lại lái qua chuyện 500 F5E? các anh có biết giá như mà có đủ số đó thì các anh đâu có đứng đây? Sức mạnh của 500 F5E ra sao các anh biết không? Tôi hỏi anh, phi trường đâu cho 500 chiếc phản lực cơ chiến đấu kia hả?


Thật sự tôi có phần nóng. Anh ta có thể lần đầu nói lỡ chuyện con số như kia? Giờ rút lui chẳng kịp.

Phía sau, các cô gái Triệu phong, những cô văn công kia vừa ở trong cái hầm trú ẩn kia ra. Họ vừa nói vọng qua với một số lính của tôi phía bên này hàng rào. Mấy cái áo bà ba, trắng và xanh, những cái nhìn vào chúng tôi. Khó hiểu trong lòng mấy cô gái Triệu Phong đó. Từ năm 1972 đến nay có những người cùng quê Triệu Phong, tôi dư sức biết. Họ kẹt lại bên vùng “giải phóng” nhưng nhiệm vụ ra đây không phải là ra để mà “chơi”đâu…

-       Bây giờ tôi xác định lại với anh hai điều:

-       *TÔI KHÔNG TREO THÊM CỜ

-      * CHUYỆN F5E KHÔNG PHẢI LÀ CHUYỆN CỦA TÔI Ở ĐÂY. Chúng ta hai phe phải duy trì nguyên trạng đó là nhiệm vụ và trách nhiệm bảo vệ TUYẾN NGƯNG BẮN NÀY.


Có một điều tôi không biết tên tuổi cấp bậc chức vụ người đối diện. Bộ áo quần màu xanh bộ đội, cái mũ cối xanh với huy hiệu MTGPMN cùng cái giọng Nghệ An làm cho tôi biết rằng lực lượng Bắc Quân hoàn toàn kiểm soát vùng đất bên kia. Cái trò MTGPMN chỉ là màn kịch giả hiệu cho một cuộc xâm lăng trá hình. Mấy mươi năm sau tôi vẫn nhớ mãi cái luận điệu của một 'con vẹc' với con số 500 chiếc F5E mà có thể bạn đọc cho người viết là quá HƯ CẤU nhưng đây là một sự thật về ngôn ngữ của chính trị viên CS là vậy…LÁO KHOÉT LÀM ĐẦU...



PHẦN 3




VỤ CHIẾC TÀU TIẾP TẾ BẮC QUÂN BỊ BẮN CHÌM NGÀY 20-6-1974

 

   Mấy cái chốt ngó qua phe Bắc quân kia chỉ cách hàng rào ranh giới hai phe chưa tới một trăm mét. Tạm coi thứ hàng rào này là biên giới tạm thời. Tôi nhìn hút tầm mắt, nó chạy tít vào phía trong xa Lễ Xuyên, Long Quang…Vài miếng tôn nhôm hình chữ nhật, lính bên mình vẽ cờ vàng rồi cắm trên nóc chốt. Ngày đổi quân, do gió biển thổi vô làm ngã nghiêng vài lá cờ nhôm đó. Trung đội tôi mới đổi quân xong thì vội lo lấy lên cắm lại. Té ra bọn họ theo dõi mình từng li từng tí, do đó mới hô hoán ‘vi phạm’ Hiệp Định tức là “cắm thêm cờ”.  Đó là cớ sự tôi phải thân chinh ra cãi lại với viên cán bộ bên kia.  Tôi chẳng mất chi, lại được một dịp liếc nhìn hay gọi là ‘ngắm’ mấy nàng con gái Triệu Phong đang kè kè theo anh chàng chính trị viên nói giọng Nghệ An trên. Tội nghiệp từ năm 1972 tới nay các nàng phải sống trong “vòng tay CS”.  Một vùng đóng quân giữa hai phe, toàn lính phe ta và lính bên kia, có những bóng hồng dù phe nào chẳng quan trọng lắm, khi không xuất hiện cũng “đỡ buồn”.

 

1 CHIẾC TÀU của HẢI QUÂN MIỀN BẮC XÂM NHẬP VÀO SÁNG SỚM 20/6/1974


TÔI BỊ ‘THUYÊN CHUYỂN’

Ái chà, nghe hai chữ “thuyên chuyển” sao mà quan trọng quá. Viết cho vui vậy thôi, chứ không quan trọng như thế. Một vài tuần sau thình lình Đại Đội Trưởng Lê Kim Chung có lệnh cho tôi ra đóng xa hơn trám vào chốt sát cạnh mép biển tại thôn Vĩnh Hòa. Từ đây tôi xem như là “biệt phái” cho Tiểu Đoàn và liên lạc thẳng hay nhận lệnh của BCH Tiểu Đoàn 105 đóng tại Thôn Ba Lăng. Tiểu Đoàn còn tăng phái cho tôi 1 khẩu cối 81 ly cùng người hạ sĩ quan xạ thủ tên Oanh có trách nhiệm tác xạ và gìn giữ khẩu súng cối đó.


Mũi tên đỏ là chốt Vĩnh Hòa Phường điểm ngoài cùng của bờ biển VNCH sau khi  Cửa Việt chính thức mất vào ngày 31.1.1073

Thật ra trên bản đồ Bộ TTM cái thôn này tên nguyên chữ là Vĩnh Huề Phường. Tên thì có nhưng nhà cửa không còn dấu vết. Từ tấm bản đồ vị trí chốt của tôi xem như là Chốt Biển Ngoài Cùng của VNCH do Cửa Việt đã mất từ ngày ký hiệp định Paris 28/1/1973 cho đến nay. Thời gian đó tôi còn ở quân trường Quang Trung và đi công tác thông tin tuyên truyền cho Hiệp Định tại Củ Chi tỉnh Hậu Nghĩa.

Hàng ngày ngồi bó gối bên cái máy PRC 25 kêu sè sẽ, hoặc nghe tiếng bụi dương (phi lao) hát ru theo gió. Xa tít ngoài khơi không một bóng thuyền, sóng biển lao xao đánh vào bờ cát vắng thật buồn tênh. Hạ Sĩ Oanh người giữ khẩu 81 ly, không có việc gì ra cắm lại mấy cộc tiêu cho khẩu 81. Tất cả đều hoang vu đều buồn vắng. Cơ ngơi chúng tôi chẳng có gì, cái hầm đang bị cát trắng thổi vào. Tấm poncho trải tạm nằm ngủ với cát. Một cái giếng nhỏ, thành bằng một tấm tôn uống cong. Lớp nước ngọt mỏng manh ở dưới chỉ lấy tay là múc được. Chúng tôi không dám đào sâu hơn, nếu sâu hơn sẽ bị nước mặn.

 

CHIẾC TÀU TIẾP TẾ BẮC QUÂN BUỔI SÁNG 20 /6/1974


Buổi sáng sớm ngày 20/6/74 khoảng 6 giờ, tôi vừa đánh răng vừa ngó ra biển như mọi khi. Bỗng tôi giật mình không tin vào mắt mình…

Ngoài kia có một chiếc tàu đang chạy xình xịch, tốc độ không quá nhanh mà cũng không quá chậm, mũi hướng về hướng nam. Chuyện gì thế kia? Chiếc tàu lớn cỡ chiếc giang thuyền của VNCH nhưng gần mũi có cắm một lá cờ MTGPMN hai màu đang phất phới theo gió.

-Ôi tàu ngoài kia vào!

Tôi không kịp súc miệng chạy bay vào hầm gọi ngay về BCH Tiểu Đoàn 105.

Rất may, bên đầu máy có tiếng nói của Đại Úy Trần Quang Hiền trưởng Ban 3/ Hành Quân.

     -Hương Điền đây Phú Lộc nhận được trả lời?

    -Phú Lộc đây Hương Điền nghe 5/5?

Hương Điền là ám danh Đại úy Hiền, còn Phú Lộc là ám danh của người viết.

    -Báo cáo Hương Điền môt con cá thu đang vượt làn chỉ xanh về hướng thẩm quyền.

Tôi miêu tả khoảng cách và tốc độ chiếc tàu, cùng nhấn mạnh có thêm lá cờ MTGPMN đang cắm trước mũi. Nhưng tại sao lại ngang nhiên vượt tuyến hai phe đi tà tà về nam…Chắc chắn là chàng ta bị lạc rồi. Chiếc tàu kia đang tin chắc là “CHƯA ĐẾN CỬA VIỆT

Đại Úy Hiền cho tôi biết là anh đang cấp tốc báo cho Sư Đoàn TQLC ngay lập tức. Tất cả sự việc diễn ra giữa tiểu đoàn 105 và Sư Đoàn TQLC ra sao người viết chẳng nghe được. 

 

    Nhưng từ bờ Biển thôn Vĩnh Huề- Ranh giới 2 phe- này tôi chỉ có việc lay hoay không ăn sáng cùng lính trung đội đứng trên đụn cát cao nhìn con tàu ù lì chạy mút vào hướng Mỹ Thủy vượt qua cả vị trí TĐ 105 luôn.

 

Tiểu đoàn 105 ra lệnh cho tôi và hạ sĩ Oanh chuẩn bị đạn cối 81 ly để đón đầu con tàu  nếu quay trở lui.

Trong lòng tôi chỉ tin một điều là con tàu kia hải hành quá tệ, nó lầm chưa tới Cửa Việt để vào từ Cửa Việt nó đinh ninh sẽ theo sông Thạch Hãn vào Đông Hà theo dự tính. Cũng cần nhắc lại Cửa Việt và Đông Hà sau 1973 thuộc miền Bắc ...

Từ Thôn VĨnh Huề tôi cố nhìn về hướng biển Mỹ Thủy tôi cố nheo mắt nhìn 

 hai chiếc trực thăng vần vũ bao quanh một mục tiêu nào đó...rồi có một cột khói trắng bốc khá cao ...


TÀI LIỆU CỦA SƯ ĐOÀN TQLC

Ch Tướng Lân và Đại Tá Định đang đứng xem chiến lợi phẩm từ chiếc tàu bị bắn chìm  được mang vào bờ biển Mỹ Thủy 

Nửa thế kỷ qua tôi nhờ vào tài liệu của Sư Đoàn TQLC mới biết được lịch trình trận đánh

Sáng ngày 20-6-74 hồi 6 giờ 30 sáng. Sĩ quan trực Trung Tâm Hành Quân Lữ Đoàn, Thiếu Uy Chương và Trung Úy Vinh được Tiểu đoàn 105 Địa Phương Quân tại (418-626) báo cáo thấy một tàu, không phải là loại tàu đánh cá vẫn xuất hiện thường ngày, tàu này đang di chuyển về hướng Nam cách bờ khoảng hơn một cây số, trời quang đãng. Có thể quan sát thấy tàu nhưng không thấy chi tiết như là mang cờ nước nào hoặc số đăng bộ. Tàu tiếp tục đi qua TĐ2/TQLC tại (463-585) thì trời đã sáng rõ, nơi đây báo cáo là chiếc tàu vận tải loại lớn hơn LCM, và nhỏ hơn LCU di chuyển về hướng Nam cách bờ khoảng hơn một cây số, có mang cờ Việt cộng.( MTGPMN) Lữ Đoàn báo cáo lên BTL/SĐ/TQLC ở Hương Điền tại (634-428) , đồng thời xin Bộ Tư Lệnh xác nhận có tàu bạn đi công tác đặc biệt ở phiá Bắc trở về không.

Bộ Tư Lệnh xác nhận là không có tàu nào của Hải Quân hoặc của đơn vị Đặc Biệt nào hoạt động ở vùng này trong buổi sáng ngày hôm đó. Lữ Đoàn cho lệnh các đơn vị sẵn sàng đồng thời điều động Chi Đoàn 3/20 chiến xa M48 và Trung Đội Đại bác 106 ly của Lữ Đoàn di chuyển ra Mỹ Thủy. Đại Tá LĐT/LĐ/258, Trung Tá Đoàn Trọng Cảo Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh, Thiếu Tá Quách Ngọc Lâm Trưởng Ban 4 Lữ Đoàn có mặt ở Mỹ Thủy khi chiếc tàu đang từ Bắc di chuyển xuống.

9 giờ Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh Sư Đoàn đã dùng trực thăng bay trên vùng để quan sát chiếc tàu lạ. Lúc này tất cả các thành phần có mặt ở Mỹ Thủy đã bố trí sẵn sàng.

9 giờ 45 tàu đi ngang Mỹ Thủy và BCH/LĐ được các giới chức có thẩm quyền xác nhận chắc chắn không phải là tàu Bạn. Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh TQLC được lệnh tác xạ ngăn chặn để tàu phải ngừng và cặp vào Mỹ Thủy nhưng tàu vẫn chạy và còn tác xạ xối xả vào các đơn vị ta bằng đại liên 50. Đại Úy Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 3/20 chiến xa M48 được lệnh khai hỏa vì tàu ở trong tầm tác xạ, lúc này là 10 giờ sáng ngày 20 tháng 6 năm 74 vị trí tàu tại (500-580), mới chỉ có loạt đạn Đaị bác 90mm đầu tiên, chiếc tàu đã bị chiến xa M48 bắn trúng khu vực máy tàu nằm phiá sau làm hư hại, tàu mất thăng bằng quay vòng tròn và từ từ chìm dần, đây là vùng biển không sâu nên tàu không chìm hẳn, phía mũi tàu còn nổi ở trên mặt nước.

Có 1 thủy thủ nhẩy ra khỏi tàu nhưng vì quá xa bờ nên bị chết đuối. Người này đã được các anh em TQLC vớt lên và chôn cất tại Mỹ Thủy.

Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC có cho 1 toán người nhái do Đại Úy Đào Ngọc Kỳ chỉ huy, đến Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn để được hướng dẫn ra chỗ chiếc tàu chìm. Toán người nhái được Công Binh Lữ Đoàn đưa ra chỗ tàu chìm bằng xuồng cao su. Đại Úy Kỳ báo cáo là tàu chở đầy các thùng gỗ lương thực đóng hộp có nhãn hiệu của Trung quốc, thùng gỗ lớn bằng thùng đạn pháo binh 105 ly của Mỹ. (thịt lợn hộp Trung Cộng 500 gam sau này lên núi có chia lại cho các tiểu đoàn ĐPQ một tiểu đội khoảng 2 hộp -ĐHL) rất nhiều đạn dược các loại cho súng cá nhân và súng cối 82 ly, thủy thủ đoàn còn lại trong tàu là 7 người, tất cả đều chết. Sau khi chiếc tầu Bắc việt bị bắn chìm thì 1 Chiến hạm của Hải Quân Việt Nam cũng được Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 điều động có mặt ở cạnh chiếc tàu bị bắn chìm, để đề phòng trường hợp Hải quân Việt cộng có thể từ Cửa Việt đến tiếp cứu đồng đội.

Trưa ngày 20 Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân Tư lệnh Sư Đoàn TQLC cũng đến Mỹ Thủy. Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 258/TQLC đã hướng dẫn Chuẩn Tướng Tư Lệnh TQLC xem các thùng thực phẩm khô, đạn dược của Trung cộng và tài liệu…(hết trích)


 ***

Đọc lại tư liệu này tôi được biết thêm một ít chi tiết. Nhưng có chút gì bâng khuâng (hay bất mãn) trong lòng do tôi tự hỏi:

-KHÔNG BIẾT MẤY ÔNG LỚN CỦA SƯ ĐOÀN TQLC KHI LẬP ĐƯỢC CHIẾN CÔNG KIA CÓ LẦN NÀO NGHĨ ĐẾN AI LÀ NGƯỜI PHÁT GIÁC VÀ BÁO CÁO ĐẦU TIÊN SỰ XUẤT HIỆN CỦA CHIẾC TÀU?

Chẳng một lời hỏi thăm HAY VINH DANH về tiểu đoàn 105 ĐPQ. Tôi lại nghĩ giá như sáng đó tôi vẫn còn ngủ say không có tinh thần trách nhiệm thì chưa chắc sự việc đã diễn tiến như vậy?


PHẦN 4 (hết)

LONG QUANG Ì ÙNG TIẾNG SÚNG - chớ đùa với TQLC

Một ngày tôi chợt giật mình do có tiếng súng nổ hướng thôn Long Quang. Trong đó có chuyện gì? Vài tràng súng lớn nhỏ, có cả tiếng nổ của phóng lựu M 79...
Phía Long Quang đang có một đơn vị TQLC trong đó. Từ ngoài này nhìn vào, tôi nhận ra vài bụm khói trắng cũng những tràng tiểu liên  xa nghe lẹt đẹt. 
Tôi gọi máy vào Đại Đội 2 và cả BCH Tiểu Đoàn 105. Hương Điền (Đại Úy Trần quang Hiền) cho hay TQLC đang "có chuyện" với phía bên kia. Không biết ra sao? hạ hồi phân giải. Nhưng theo tôi biết thì lính Địa rất hiền, còn gặp mấy anh chàng TQLC thì họ "chơi" ngay. Có thể bên kia biết sợ, cuộc nổ súng chưa tới nửa giờ thì im tiếng. Tôi chẳng nghe chuyện báo cáo lên ICCS, có thể 2 phía đều muốn 'để yên' chuyện này luôn. 
Chẳng hề có tin tức gì về tổn thất. Có một điều có TQLC đi kèm đó là chiến thuật của Tiểu Khu mà Tiểu khu trưởng QT không ai khác hơn là Trung tá Đỗ Kỳ cũng là TQLC. (sau này đơn vị chúng tôi lên Động Ông Do thì ông Kỳ lên Đại Tá)

SÓNG BIỂN QUẠNH HIU 


Chiếc tàu xâm nhập, số phận nó qua con mắt người giữ chốt biển tiền tiêu như tôi chỉ đoán và sau đó chẳng cần bận tâm nữa. Cấp bậc chức vụ nhỏ bé như tôi có ai liên lạc hay cho một chút tin tức gì đâu. Thú thật ngày đó tôi chẳng cần băn khoăn, bất mãn chỉ một đường thi hành đúng nhiệm vụ rồi thôi. Các ông tá ông tướng trong kia Sư Đoàn, Tiểu khu Quân khu có thể khai thác chiến công từ chiếc tàu bị bắn chìm kia để thêm huy chương, công trạng và cuối hết là lên LON...

Người trung đội trưởng, giữ một cứ điểm biển nếu nhìn trên bản đồ là một chốt điểm theo lý luận có thể "ngang hàng" với Cửa Việt; lý do

CỬA VIỆT MẤT RỒI sự mất mát kéo theo hàng ngàn sinh mạng chiến sĩ TQLC, Thiết Giáp Bộ Binh hi sinh và hoàn toàn tay trắng khi số phận VNCH có thể định đoạt từ ý định tận đâu ở Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh.

CỬa Việt mất sau Hiệp Định 27.1.1973 là một thỏa thuận ngầm để có các chuyến tàu của miền bắc thông thương vào tận Đông Hà miền đất đang là của họ.

Vô phúc cho chiếc tàu hôm đó, tôi chắc chắn là chạy lạc. Nếu cố ý vào thì chúng dại gì lại treo cái cờ MTGPMN ngu ngơ thế kia?

Người trung đội trưởng tiếp tục an phận giữ nhiệm vụ mình.

Chuyện thực tế tiếp đến là củi. Chúng tôi chỉ dám thu dọn rồi gom lá dương khô mà nấu ăn thôi. Hơn nữa, đất ven biển rất cần mấy hàng dương này để chống nạn cát lấn dần vào phía trong. Chốn biển vắng vẻ buồn tênh, đôi khi tôi cũng có cảm hứng ngồi một mình ngắm trời mây và lắng nghe tiếng dương reo theo gieo gió. Trời vào hạ rồi đây, mấy tuần này gió Lào bắt đầu thổi mạnh. Sóng biển ban ngày bị gió Lào thổi ra cản lại nên chỉ thấy lăn tăn, đến lúc chiều về trời trở Nồm đưa gió vào lại đất liền sóng mới lớn hơn và lúc này tôi mới nghe rõ tiếng sóng vỗ vào bờ cùng làn gió mát lạnh sãng khoái vô cùng.

ĐÙA CHƠI VỚI SÓNG NƯỚC




Biển sát cạnh tầm tay, chúng tôi lo xong chuyện ‘cơ ngơi’ mới rủ nhau ra tắm biển. Thế là cả một toán ‘đực rựa’ lột phăng hết áo quần để trở về với “thời nguyên thủy”. Dĩ nhiên ở vùng hoang vắng này làm gì có bóng đàn bà để phải ngượng ngùng. Cả một toán đàn ông ‘không áo lẫn quần’ giữa thanh thiên bạch nhật dàn một hàng ngang ra hụp lặn đùa chơi với sóng nước. Khi đang nhấp nhô với sóng biển, tôi chợt nhận ra một đám nuốt, chúng như những cánh bèo trắng lờ đờ, bập bềnh theo sóng dạt vào bờ. Chẳng suy nghĩ tôi chụp một con nuốt đưa vào miệng nhưng tôi vội phun ra ngay vì nó cay và rát miệng vô cùng.

- Nuốt lửa đó Ch. úy ơi!

Lợi đang bơi gần tôi thấy vậy vội kêu lên. Lợi dân làng Phó Hội nên rành những thứ ở biển lắm.
Làn nước trong xanh vào buổi sáng cho tôi thấy rõ từng đàn cá lướt qua vun vút. Tôi tưởng tượng như đang ở tại một hoang đảo nào đó, mà ở đây hoang vắng thật! Cố nhướng mắt nhìn ra khơi tôi nhận ra phần đỉnh của đảo Hòn Cỏ.

Hưởng xong thú tắm biển, một lần nữa cả bọn mình trần trụi ‘hiên ngang’ vượt qua bãi cát trống trở về chốt. Chúng tôi cũng biết dội lại nước ngọt từ cái giếng cỏn con tự tạo , riêng tôi được ưu tiên hai gàu nước còn mỗi người còn lại chỉ một gàu thôi thì giếng đã cạn khô rồi, phải chờ nửa buổi nữa giếng đầy lại.

Cuộc vui nào cũng qua mau, cảnh tĩnh mịch lại trở về với chúng tôi. Càng trưa ngọn gió Lào càng thổi ra mạnh. Cát bay khắp nơi, nhìn dọc theo bờ biển, gió cát tạo thành từng lớp mây vàng nhạt. Chiều xuống thật lẹ; tôi nhìn về hướng tây, dãy Trường Sơn in đậm nét trên nền trời của một buổi chiều vàng. Tôi lại ngoái nhìn ra khơi, mặt biển từ từ tối dần lại. Lác đác vài cánh chim còn uể oải bay men theo bờ. Ngọn Nồm thật sự đã trở từ lâu, đưa ngọn gió mát rượi vào đất liền. Trong những khoảnh khắc sảng khoái của một buổi chiều tà ven bờ biển vắng, tôi cùng Lợi lấy miếng xốp khá lớn bị sóng đưa vào bờ lúc sáng sớm đem ra đẽo thành một chiếc thuyền nhỏ, còn cánh buồm thì Lợi làm từ một miếng tôn rách. Xong xuôi tôi không quên thêm vào một bánh lái đằng sau , phía trước tôi viết hàng chữ ‘Cửa Việt RIVER MOUTH’.


ĐI HỐT CÁ BÀU NƯỚC LỢ



Mùa tháng hạ (hè), cánh đồng trũng nước khô đi nhanh chóng. Cá nước lợ thiếu nước nằm chờ chết khắp nơi. Mới mấy năm dân bỏ đi khỏi đây, cá sinh sôi nảy nở nhiều vô số. Lúc này đàn chim biển tha hồ bay vào bắt cá; từng đàn cá giãy đành đạch trên mấy thảm cỏ nước đang khô dần. Tuy vậy Lợi hứa sẽ dẫn chúng tôi đi ‘hốt cá ‘ chứ không thèm ra bắt mấy thứ cá nhỏ như vậy. Chúng tôi men theo mép biển đi về hướng nam cách chốt chừng ba cây số thì gặp một bàu nước lớn nằm cách bờ biển chỉ vài trăm mét. Lợi hướng dẫn mọi người dùng xẽng đào một đường hào dài và sâu hơn nửa mét cạnh bàu nước hướng nhìn ra biển. Đào xong đường hào thì trời đã xế chiều, Lợi bảo tất cả ra về chờ khuya sẽ đi ‘hốt cá’. Tôi tuy nghe vậy nhưng trong lòng vẫn nghi ngờ.

Chờ tới khuya khoảng một giờ sáng Lợi đánh thức cả bọn dậy đi hốt cá thật. Lợi không quên đem theo ba cái bao lớn nữa. Chúng tôi lầm lủi đi trong đêm. Trời về khuya khá lạnh, không gian chỉ nghe tiếng sóng vỗ rì rào. Chúng tôi cứ theo mép sóng mà đi. Sóng biển về đem lấp lánh ánh lân tinh. Bầu trời thỉnh thoảng có vài ánh sao băng xẹt ngang, tôi vừa đuổi theo cho kịp bọn vừa ngắm ánh sao băng thấy chúng như đang chui vào lòng đại dương vậy. Gió đêm càng về khuya càng lạnh dần. Đi hơn nửa giờ thì chúng tôi đã đến con hào cạnh bàu nước chiều qua.

Trời ơi ! tôi không thể ngờ cá nhiều đến như thế: cá chen chúc nhau dưới đáy con hào, chỉ toàn là cá lóc mà chúng tôi thì quen gọi là cá tràu. Chúng tôi vui sướng thi nhau hốt cá đựng đầy cả ba cái bao gạo mà Lợi đem theo rồi cùng nhau vác về . Trên đường về Lợi mới giải thích cho tôi hiểu: thì ra mùa hạ nước trong bàu cạn dần, mấy chú cá nhất là cá tràu và trê, ban đêm chúng cảm nhận theo tiếng sóng biển mà ‘cằn’(trườn) ra, thế là chúng rơi hết xuống con hào chúng tôi đã đào. Tôi thực sự thán phục kinh nghiệm của Lợi, một người dân sinh ra từ vùng biển mặn. Về đến nơi chúng tôi đem cá nhốt ngay vào cái thùng "phuy" (thùng tonno ngày xưa đựng dầu) mà Lợi kiếm đâu ra từ lúc nào. Cá trê và rô bị nhốt riêng do mấy cái ngạnh nhọn hoắc của chúng biến chúng thành mấy tên ‘sát thủ’ đáng sợ, chỉ cần sơ ý để đám này lẫn lộn vào đám cá tràu một lúc thôi thì đã có mấy con tràu chết lật ngửa bụng trắng hếu.

MONG CHỜ XE TIẾP TẾ

- Ngày mai có tiếp tế rồi , Ch. úy ơi !

Tiếng Sơn nhắc làm tôi vui hẳn lên. Mà thật sự mọi người đều cùng chung tâm trạng. Ai cũng mong ngày tiếp tế mau về. Đóng quân lâu ngày ở một nơi hoang vắng anh lính nào cũng mong mau thấy lại hình ảnh chiếc xe tiếp tế của tiểu đoàn 105. Dù chiếc GMC đã cũ, sứt mẻ, ọp ẹp nhưng chính nó là niềm vui của đơn vị, của mọi người. Cách mười ngày chiếc xe quen thuộc đó về một lần, tiếp tế thực phẩm cho chúng tôi. Một chút tưởng tượng trong tôi, chiếc xe đó mỗi lần về chốn biển này sẽ mang theo một ít hơi hám của chốn "thị thành" dù là Diên Sanh hay Mỹ chánh thậm chí là chợ Phò Trạch cũng là "thị thành" do nơi đó có chợ, có dân và có cả những thứ mà người dân làm ra. Trái bí, trái ớt miếng thịt heo và cả chút ruốc tất cả đều đậm đà đều cần thiết với người lính chiến. Chiếc xe khó lòng mang "hương vị Huế", tôi liên tưởng đến hình ảnh phong kẹo mè xững Huế, cái tên Song Hỹ giờ tôi sao quá xa vời. Chiếc GMC còn mang ra chốn này những niềm vui cho lính đó là những cánh thư gia đình hay từ người yêu của mấy anh lính trẻ. Tôi thì cô đơn hơn, lính mới ra trường , hai mươi mốt tuổi. Tôi thực sự chưa có mối tình đầu nào làm "hành trang mang vai" để thương nhớ cả.

Sáng dậy, quả đúng là một ngày hội cho đại đội Hai này. Mỗi trung đội chỉ cắt năm sáu lính ra bãi biển chờ đồ tiếp tế thế mà khi tất cả tụ lại trên bãi biển cạnh chốt tôi đang đóng thì nghe sao mà ồn ào rộn rã. Tiếng cười tiếng nói, mày tau í ới , lẫn tiếng văng tục "loạn xì ngầu. Tôi là cánh quân đóng tại Vĩnh Huề sát biển nên thong thả. Đứng trên mô cát cao cạnh khẩu cối 81 ly, tôi chăm chú hướng mắt trông theo mép biển hướng nam hướng Thôn Ba Lăng... chiếc GMC vừa đổ hàng xong cho BCH tiểu đoàn ở Ba lăng nó đang theo mép biển đi ra hướng chúng tôi . Lúc đầu thấy nó chỉ là một chấm đen rồi hình ảnh thân yêu của nó càng lúc càng rõ.

        -Xe đến rồi tụi bây ơi !

Có tiếng anh nào reo lên. Từ trên xe, tr. sĩ nhất Thỉu, tiếp tế đại đội vội nhảy xuống xe. TS Thỉu dáng người khô khan, nước da ngâm đen, vừa phân phối thức ăn vừa nói lớn để mọi người cùng nghe:

- Kỳ ni đồ ăn tươi là bính ngô và thịt heo thôi nghe.

Thức ăn tươi chia về từng tiểu đội độ nửa ký thịt heo và góc trái bí ngô, chỉ trong ngày đầu là hết sạch. Những thứ còn lại gồm hai ba lon thịt heo hay thịt ngựa của quân nhu, thêm ít ruốc và vị tinh( bột ngọt), mấy thứ sau này thì phải tiết kiệm tính toán ăn làm sao cho đến giáp vòng tiếp tế khác. Còn gạo thì chia cứ mỗi đầu người một ngày một ca ‘y-nốc’ (inoxidable) đong đầy-- gạt sát, thế là xong, đơn giản lắm.

-A còn một ít thư cho anh em đây !

Ts Thỉu vừa đưa thư vừa lo chuyển đồ cho BCH đại đội.


Giờ mới đến lúc chúng tôi lo chuyện đổi chác thùng phuy cá. Sau một lúc "kỳ kèo" thêm bớt, Ts Thỉu chịu đổi thùng phuy cá với 2 "cây" thuốc lá Bastos luxe thế Bastos xanh do loại Bastos Luxe hút "phê" hơn.




-Nhưng phải chờ kỳ tiếp tế sau mới có đó nghe.


TS Thỉu hứa hẹn với chúng tôi như vậy.
Chúng tôi hì hục một hồi cuối cùng thùng cá nặng nề cũng lên được trên xe. Tôi thở phào nhẹ nhõm, thà chịu thiệt một ít mà có thuốc chia nhau hút còn hơn ôm hết cá mà ăn thì chỉ có ngồi đây mà gãi sưng phù cả người thôi.

-Nhớ mấy tút thuốc nghe TS. Thỉu, chúc bồ mua may bán đắt, vào chợ Diên Sanh mà ‘thẩy’ (bán vứt) nó đi nghe .

Chiếc xe GMC chạy rồi tôi còn đứng nói vói theo. Lính tráng xa nhà chia ngọt xẻ bùi, có nhau từng điếu thuốc, thân thiết như anh em, nhất là cùng mang thân phận làm lính bên nhau. Hơi tức cười trong lòng khi tôi nhớ lại cách nói ngắn gọn của mấy anh chàng lính "địa" lúc nghe chung cái radio bé nhỏ:


- Mở cái đài (radio)-sang ngang (đổi băng tầng)-không Thúy (ca sĩ Thanh Thúy) thì Tuyền (ca sĩ Thanh Tuyền).”..

Câu nói toát lên nét nào hồn nhiên , chất phát của mấy anh lính trẻ. Chúng tôi cùng nhau nhìn theo chiếc xe tiếp tế xa dần rồi khuất hẳn trong màn gió cát vàng nhạt.  

Hôm nay Lợi, Phê. Sơn lo vá lại mấy mãng lưới rách đã từng bị chôn vùi trên bãi biển này. Tối nay chúng tôi sẽ đi kéo tôm tại mấy bàu nước lợ quanh đây.



CHIỀU CHIỀU TÔI NHÌN LÊN HƯỚNG TRƯỜNG SƠN


   Sự yên lặng sớm trở về bên bờ biển vắng. Và cứ thế ban mai tôi có dịp chiêm ngưỡng cảnh bình minh huy hoàng trên mặt biển rồi chiều về tôi lại ngắm ánh tà dương từ từ khuất dạng sau dãy Trường Sơn, phương đó đang ngóng chờ những gót giày chúng tôi nay mai trở lại. Giờ đây ngoài kia, sóng biển quê hương tuy vẫn vỗ dạt dào, biển mãi đợi dân về nên sóng mãi quạnh hiu./.

No comments:

Post a Comment