Saturday, January 13, 2024

Hồi ký tù binh- CƠN ĐÓI CỦA NGƯỜI TÙ BINH TRONG RỪNG LIM THANH HÓA


Lòng Hồ Sông Mực sau này chụp từ vệ tinh (google)

***

lá thư của tác giả hiện còn giữ

    Huyện Như xuân-Tỉnh Thanh Hóa đầu năm  1978

   Giờ ăn trưa,  rừng vẫn còn nhả khói. Làn mưa xuân nhè nhẹ cùng cơn lạnh nơi miền núi cao.  Mưa xuân không đủ làm tắt nhiều đống lửa khổng lồ từ vô số gỗ cây đang bị khai hoang, đốt dọn. Trai, người tù binh, chậm rãi khều từng cục than từ đống lửa ra dùng nướng miếng bánh mỳ luộc, khẩu phần trưa cho mỗi người tù cải tạo tại đây.  Sau những giờ vật lộn với từng cây lim và trường mật khổng lồ Trai cùng các bạn tù khác, ai cũng mong đợi nhận khẩu phần trưa. Mỗi người sẽ có một miếng bánh mỳ luộc lớn non lòng bàn tay, dày na ná hơn một phân tây.  Miêu tả thì đơn giản nhưng lát bánh đó là cả một niềm mong đợi. Người nhận nhiệm vụ gánh bữa trưa ra cho toán làm rừng đang đặt gánh xuống. Anh khéo léo đặt thùng nước nấu với lá ngái rừng, đầu kia là một cái thúng đựng những lát bột mì luộc. Mỗi người sẽ có đúng một lát cho phần ăn trưa. Chẳng còn gì nữa, không thức ăn nào, chỉ ngần ấy như mọi bữa.
      Trước khi nướng miếng bánh, anh cẩn thận lấy mũi rìu rạch từng ô vuông nho nhỏ, anh rạch cả hai mặt của miếng bánh mỳ đó. Vừa thong thả làm anh vừa tưởng tượng chiếc bánh đó sẽ phồng rộp lên, phơn phớt vàng dưới hơi nóng của lớp than hồng. Hình ảnh cám dỗ đó làm Trai phải nuốt nước bọt vài lần. Nhưng than phải trải mỏng thôi, nhiều than quá sẽ thiêu cháy miếng bánh quý giá kia mất. Trai vót từ thân cây lụi làm ra chiếc que xiên bánh. Rừng thật nhiều cây lụi. Quê anh, người Huế thường dùng lụi để làm nan cho loại quạt có tên là "quạt lụi". 

    Tiếng than nổ tí –tách, những đống gỗ rừng vẫn ngùn ngụt cháy. Tất cả cánh rừng lim này phải bị chặt hạ và đốt cháy thành bình địa. Nơi đây sẽ biến thành lòng hồ mênh mông. Công trình này được gọi là ‘Công Trường Giải Phóng Lòng Hồ Sông Mực" nó sẽ đem nước về huyện Nông Cống, Tỉnh Gia cùng các miệt đồng bằng thuộc tỉnh Thanh hóa. Rừng mênh mông, đa số là thứ gỗ lim cứng như thép nguội mà xưa kia danh tướng Ngô Quyền đã dùng đóng cọc dưới lòng sông Bạch đằng và đã phá tan tành quân xâm lăng Nam Hán. Giờ thì những cánh rừng lịch sử và quý báu này đang bị phá hủy một cách  tàn khốc. 
   Giờ người tù tiếp tục trở hai mặt của miếng bánh trên mặt than, tay của anh đều đặn đưa miếng bánh qua lại, mềm mại chẳng khác gì bàn tay của một người "vũ nữ lành nghề". Thật ra miếng bánh đã vàng tới và thơm lắm rồi. Thế mà lạ, người tù chưa muốn ăn ngay. Tâm trạng anh trước miếng ăn, đó là ý nghĩ lạ lùng chẳng khác chi lo sợ mất đi "một vật báu " nào đó. "Vật báu" đó trước sau gì cũng sẽ biến mất nhanh thôi, do anh phải ăn và miếng bánh luộc kia dù có vàng, rộp phồng, thơm tho ra sao sẽ không còn hiện hữu trên bàn tay anh nữa. 

                ĐÓI  !!!

    Nhưng trước khi ăn, anh còn muốn hương thơm đó bốc lên tận cùng của khứu giác. Cứ cho là “Tận hưởng” mùi thơm trước khi anh chính thức ăn. 

    Thật là một ý nghĩ lạ đời !

    Người tù thở dài do anh không thể kéo dài thêm được. Gần Trai, mấy bạn tù khác đang loay hoay nướng bánh giống anh. Không biết ai là người  đầu tiên bày ra chuyện nướng lại lát mỳ lại trên lửa? Than hồng do đốt rừng thì tha hồ nhưng khẩu phần mỳ luộc thì mỗi người chỉ một lát thôi.  Nhóm tù trong giờ ăn trưa đang lay hoay bên đống than hồng,  chẳng ai để ý đến ai.

     Mọi ý nghĩ sao quá giống nhau. Những tính toán cho lát bánh mỳ đơn điệu đó ắt hẳn đến từ cơn ĐÓI triền miên ngày này qua ngày khác. Sự hành hạ liên tục đó không hẳn từ chuyện phần ăn trưa của tù binh đang lao động giữa rừng. Bao cây gỗ lim hay trường mật cứng như thép cũng triền miên hành hạ các anh. Đám rừng này vừa làm xong, lại phải qua chặt hạ đám rừng khác...tiếng rìu quất "chát chúa" vào thân gỗ cứng, đôi tay mõi nhừ nhức nhối. Từng cơn hành xác dai dẳng, chúng thi nhau nện lên bao tấm thân gầy guộc trơ xương của đám tù binh không chút ngơi tay... 

    Trai nhớ lại bao đống gỗ lim cùng trường mật, thẳng đẹp được xe molotova của bộ đội vào đem đi. Sức tù sẽ đưa gỗ lên xe. Tiền bán gỗ cho Quân Khu là chuyện của Trại.  Có người tài xế molotova nào đó chợt động lòng cho người tù cái bánh bao, khẩu phần ăn của người lính đó. Nhiệm vụ chính của tù là  phải chặt hạ cho bằng, hết và đốt dọn thật sạch, nhưng miếng ăn của tù chẳng bao giờ được tăng thêm. Non hai năm ra đây, từng ngày...từng ngày đám người bất hạnh bị cơn đói khốn nạn dày vò...

    -Hãy cho chúng tôi ăn no thêm ! mai đây nước sẽ  dâng cao, nước sẽ về Nông Cống, Tỉnh Gia ...  Nhiều đồng lúa sẽ được bội thu từ Lòng Hồ Sông Mực  này   ...có thiệt thòi gì đâu hả các ông?

Nhưng bao ước mong đòi hỏi chỉ là vô ích ...


năm 2000- LÒNG HỒ SÔNG MỰC TRỞ THÀNH NƠI DU LỊCH XUNG QUANH LÀNG XÃ MỌC LÊN CHEN CHÚC


    Trở lại chuyện nướng bánh, không nói ra mà lại giống nhau. Ai cũng mang một ý tưởng là muốn kéo dài hình ảnh chiếc bánh, rồi ngắm, nhìn, suy nghĩ hay thừ người ra trong chốc lát. Cái ý tưởng ‘khốn cùng’ nhất là không ai muốn nó "chui  nhanh"  vào những cái bao tử "lép xẹp" . Dù sao chăng nữa cũng phải chấm dứt bằng quyết định dứt khoát. Phải ăn chiếc bánh kia. Giờ chặt hạ buổi chiều sắp đến. Những nhát rìu phải chặt vào thân lim “chan chát”, những cái rựa phải phát quang thật sạch quanh thân lim cho khỏi vướng mắc. Lát bánh đó sẽ được trả lại cho cánh rừng chiều nay với bao nhiêu nhát rìu vung lên hạ xuống cùng tiếng răng rắc của nhiều thân cây sắp đổ.  Nhành lá rậm rạp của nó phải được ‘băm vằm’ nằm rạp trên mặt đất. Điều kiện là tất cả cành ngọn phải được cưa lìa thân…Sức mạnh từ miếng bánh mỳ luộc là ở đây. Nó sẽ cho ra nhiệt lượng cùng sức lực được hút ra từ bao tấm thân gầy còm của tù. Đó là sức mạnh, nhưng cuối cùng sẽ trả lại hết cho cánh rừng trước khi toán tù binh về lại trại, chiều nay.


  Dứt dòng suy nghĩ, giờ Trai tự "cho phép" mình từ từ nhai. Cử động nhai xem chừng cẩn thận, rành rẽ không kém lúc nướng bánh chút nào. Anh cố cho nước bọt của mình thấm thật đều, thật nhuyễn vào từng "tế bào" nhỏ nhất của mẫu bột giữa hai hàm răng. Trai cố tình tạo cho chiếc lưỡi một cảm giác thật ‘hưởng thụ’ thật ‘đê mê’ đến tận từng góc cạnh của vị giác. Người tù không muốn hấp tấp để khối bánh đã được nhào nặn với nước bọt của anh xuống nhanh qua cổ họng. Cái dạ dày trống rỗng khốn nạn  thỉnh thoảng lại kêu lên "ồn -ột"...đó là âm thanh anh nghe và ai đang gần hay nghe lúc Trai đói bụng. Anh nhớ lại chứng bệnh này xảy ra từ lúc trại Ái Tử đi làm ruộng muối ở thôn Hà La - Cửa Việt.

      Trai đưa mắt nhìn lên từng ngọn đồi trơ trọi , cháy loang lỗ, toang hoác, hai bên còn nhiều mảng rừng tiếp tục phải bị chặt hạ và đốt sạch. Mấy dãy núi bao quanh trông giống như một lòng chảo, mai đây nước sẽ dâng cao, người ta sẽ thả lưới đánh cá nên mặt đất bắt buộc phải sạch gốc cây. Đây là điều vô phúc, ai rủi để gốc cây còn cao thì phải khuân củi tới đốt cho gốc cây đó cháy ra tro bụi mới thôi. Sao cũng được, Trai nghĩ-nhưng khốn nạn nhất là sự hành hạ của cơn đói, nó cứ kéo dài lê thê mãi không thôi!  

 


    Trai tiếp tục nhai. Giờ thì Trai cho phép mình được nuốt. Hàm dưới của anh đưa qua, lại chậm rãi.  Mắt anh nửa như lơ đảng hay  lờ đờ chẳng khác chi "cụ trâu già"  vừa xong buổi cày đang nằm "nhai lại" dưới bụi tre làng. Ta có thể tạm cho anh đang nhìn gì đó nhưng thật ra anh chẳng phải nhìn? Trai nghĩ về hình ảnh cái chết của bạn tù Bùi  Bằng Bim, cùng ‘lán’ với anh.  Bim tối 30 tết, đã dùng dây điện thoại liên lạc của hai trại 1 và 4 tự mình treo cổ chết trong rừng. Một đêm 30 cả trại đổ xô đi tìm Bim.Trại 4 báo động.Trong ánh đuốc bập-bùng, Trai thấy hai mắt Bim tuy chết nhưng còn hé mở. Lưỡi anh hơi nhô ra. Cuối cùng trại xác minh cái chết của B là treo cổ tự vẩn.  Hình ảnh hai năm trước, khoảng thời gian 1975-1976 khi hai đứa cùng ở tù Ái Tử, Quảng Trị, ngày đó Bim khá còn vui vẻ.  Mỗi lần đi rừng kiếm được cây gỗ nào đẹp và thẳng Bim  huýt sáo luôn miệng. Ngày tháng đó, tuy từng gánh củi nặng nề trên vai hay những khi mưa gió sụt sùi nhưng phải lặn lội tìm gỗ trong rừng, hai đứa không quên chia nhau từng nắm rau tàu bay, rau má.  Có lần Bim đi rừng về lượm đâu được mảnh nhôm đạn pháo sáng. Anh chờ dịp nghỉ lao động vội đem nó ra giũa, mài thành một chiếc lược nhôm thật đẹp. Dịp rảnh rang  khác Bim lại đem lược ra, tỉ mỉ chà lại thật bóng. Trai không ngờ Bim ngóng ngày người yêu của  ở Huế ra thăm. Rồi anh sẽ tặng nàng chiếc lược của tù để nàng làm kỷ niệm...một thời gian sau Trai biết người yêu của Bim lại phải đi lấy chồng. Bim hiểu và nó buồn do ngày tháng tù tội biết khi nào về. Người yêu hắn xuân sắc chỉ một thời làm răng chờ mãi?


    Hết nghĩ đến cái chết của Bim, Trai lan man nhớ đến cái chết của Đại úy Trần hữu Lực, rồi Trung Úy Nguyễn Di, Trại Một bên kia. Chết vì  "ăn nhầm gan cóc", người thì ốm đau.  Thế là hết! các anh  vĩnh viễn chẳng còn dịp trở về sum họp  với gia đình. 


    Có tiếng con tắc-kè kêu phá lên từ bộng cây lim đằng kia, đưa Trai về thực tại. Còn ít phút nữa, đám tù sẽ tiếp tục công việc. Một vài người còn gắng kiếm thêm vài nắm nấm rừng, thứ nấm tù đặt cho cái tên “nấm dai” do chúng dính cứng thân cây gỗ mục. Họ sẽ kiếm làm sao cho đầy cái lon ‘gô’ đen đầy lọ nghẹ. Chiều hết làm, về lại trại ai cũng bỏ chung với phần ăn chén cơm trộn bắp.  Buổi ăn chiều như thế nếu thêm nước vào nấu thành cháo nấm, cho no bụng. Đêm lạnh và dài, cháo nấm sẽ giúp đám tù bằng sự no nê giả tưởng. Dù sao có còn hơn không. Nấm hay bao môn thục, rau rừng là cứu tinh là bạn cho tù. Trước mắt Trai, hình ảnh quen thuộc vào những phút giải lao trong rừng, số bạn tù thật nhẹ nhàng, thật khéo, đang gỡ từng tai nấm. Giữa khung cảnh ngổn ngang cây gỗ của cánh rừng đang bị triệt hạ,  hình ảnh những con người đang đói. Tất cả đều gầy guộc trong những bộ áo quần tù trông rất ‘quái lạ’: đằng trước nửa xanh nửa trắng, phía sau lưng nửa trắng nửa xanh. Áo quần quái dị như vậy, chẳng ai dám trốn vào đâu? Tuy vậy, gai rừng ‘chẳng tha’, gai rừng từng làm rách tơi tả thứ vải tù mỏng manh kia. Rừng vắng lặng, đám người cũng im lặng. Họ đang lúi húi đi tìm những thứ gì ăn được.  Nhiều bóng người thấp thoáng, im lìm nơi chốn rừng thiêng nước độc.

     Trai bỗng nhếch mép cười, anh vừa nhớ đến một thứ trái cây lạ trong rừng. Bữa đó, mấy anh em liều lĩnh ăn xong thấy không chết mới hỏi nhau trái gì đây? ai cũng không biết;đành tạm đặt cho nó cái tên là ‘Trái Hết Sẩy’. Ơn rừng ở đây cho mấy thứ để ăn như măng nứa, môn thục dưới khe, nấm dai từ cây gỗ mục. Có người còn tìm ra loại cây leo cam thảo nấu ra sắc đỏ vị ngọt cũng tạm khỏi nhớ chất đường. Có ai đó còn tìm ra thứ cây giống cây quế, cạo vỏ ra nhai thấy cay cay. Một buổi tối nghe lao-xao có mấy người còn vớ được một mớ hạt sót nơi "đống phân voi" để lại; nhưng ăn được hạt sót cũng lắm công phu, phải nấu chín chà cho tan lớp vỏ ngoài còn hạt ở trong phải nấu kỹ rồi rang lại một lần nữa mới ăn được. Có lần anh cưa cây, cả tổ gặp may khi cưa bộng cây có một tổ ong muỗi, thứ ong này nhỏ hơn cả ong ruồi, rủi thay gặp lúc ong con đã nở hết vì vậy mật không còn nữa thế mà ai cũng tiếc rẻ chia nhau mỗi người một ít sáp ong còn lại. Sáp khá chua nhưng dù sao cũng phảng phất một ít hương vị mật ong, đó là chất bổ dưỡng , là chất sống , cho những người đang hồi suy kiệt đang khát khao mọi thứ khả dĩ bỏ vào được trong miệng , và sau hết vì ai cũng còn muốn sống để hi vọng có ngày trở lại miền nam.


     Giờ Trai đã nuốt xong miếng bánh cuối cùng. Theo thói quen anh với cái "gô"’ nước cam thảo lên uống thật đầy vào bụng. Anh muốn thứ bột mỳ đó sẽ thấm nhiều nước hơn và "trương phình " thêm. Có như thế bụng anh sẽ  có cảm giác no hơn dù đó chỉ là no nê trong chốc lát.


      Người tù giờ đây đã đứng hẳn dậy. Tay anh vội cầm lại cái rìu đang tựa vào một gốc lim. Chống rìu, một thoáng anh ngước lên ngắm bầu trời vào buổi xế trưa.  Cơn mưa phùn đã hết, bầu trời trong sáng trở lại.  Trời hôm nay có nhiều đám mây trắng bềnh bồng trôi làm anh chợt ước có phép mầu nào biến anh thành những đám mây kia. 
Anh sẽ được  "thảnh thơi phiêu du"  bay về  phương nam -  nơi đó có HUẾ, quê anh cùng những người thân yêu  đang đợi anh về  ./.


Đinh Hoa Lư 

edition 13.1.2024


nguồn edit: Miếng Bánh Trong Rừng cùng tác giả 

Trai: Tôn thất Trai, ch úy Quân Cảnh 




No comments:

Post a Comment