nhớ về vùng quê Động Đền, Hàm Tân, Bình Thuận
Xuân Đinh Dậu 2017: lần cuối nhạc phụ tôi gói bánh tét tại Động Đền Tân Phước La Gi Bình Thuận (có vc người viết về thăm)
***
Ở tù cải tạo về, còn độc thân tính tôi siêng năng chịu khó. Tôi không bao giờ bỏ qua bờ tranh, bụi lách hoang nào. Tính siêng năng đó đến từ lòng mong muốn kiếm thêm chút diện tích nào đó thế cho đám đất bạc màu trên cái rẫy có tên rất lạ là "CHỒM CHỒM". Bản thân tôi những ngày đoàn viên về với cha mẹ, còn nhớ một cây cầy cổ thụ cao to, gỗ cứng ngắt, nên trơ trọi còn lại trên rẫy đó. Mọi người trong vùng ai cũng chê, nhưng tôi chẳng bỏ. Dù có phồng rộp hai bàn tay, tôi cũng chặt hạ nó cho kỳ được. Hạ cây gỗ cứng đó xong, chỉ nhờ đôi vai, tuy đường xa hai anh em tôi gánh hết về nhà. Đến khi hỏi vợ xong, tôi đi phụ làm ruộng với cha vợ, cái tánh siêng năng cũng không giảm bớt mà lại còn tăng gấp bội.
Động Đền hồi này có đến sáu thôn. Người dân phải sống với đám ruộng pha cát bạc màu nhỏ hẹp. Đất ruộng hẹp đến nổi đứng bên này nói vói qua bên kia vẫn rõ giọng. Hàng trăm gia đình cạnh tranh nhau từng tất ruộng, bờ be để sinh tồn. Lại có lúc mích lòng nhau cũng do giành giưtt từng miếng nước đem vào từng miếng ruộng bé nhỏ của họ.
Năm 1974 dân Quảng Trị mới vào khai phá vùng đất này, nó chỉ tốt cho vài năm đầu. Ai còn ở đó đều kể lại chuyện ngày mới di dân vào đó. Hình ảnh những vồng khoai tốt củ, bới lên to chưa từng thấy. Người ta còn kể lại chuyện nhiều bụi sắn, củ nhiều và to đến nổi hai ba người mới nhổ lên được. Đó là chuyện năm sáu năm trước khi tôi ở tù về. Nhưng chuyện sắn khoai, ai là người dân xứ Động cũng còn nhắc lại. Thế nhưng đất hẹp người đông, túng cùng sinh kế có người phải từ giã quê hương gian nan chật vật đó mà ra đi biền biệt. Họ đã vào tận Rạch giá, Bạc liêu nơi ruộng đồng "cò bay thẳng cánh". Cũng có người lìa xa cái xứ mang hai chữ Động Đền ra đi nhưng lại chịu làm phu cao su tại những vùng đất đỏ nông trường tại Long Khánh, Long Thành hay Bà Tô, Xuân Sơn, Ngãi Giao, Bình Giả...
SAN LẤP HỐ BOM
Tôi về với gia đình ba mẹ thì không đi đâu, chỉ biết bám ở lại vào những mét đất ruộng cằn cỗi đó. Tôi tự xem như là "đồng cam cộng khổ" với những ai còn ở lại cho đến ngày lấy vợ lập gia đình. Làm sao quên được ngày tháng cần cù chịu khó ; ba vợ tôi, mấy đứa em vợ, và cả tôi ngày lại ngày san cả hố bom từ lâu biến thành cái hồ ở giữa đám ruộng. Cái hố bom là miếng đất hoang, chẳng ai có gan san lấp, thế mà cả nhà tôi dám làm.
Cánh đồng lổ đổ những đám lúa mất mùa, thiếu phân, thiếu nước.
Tính kiên trì cùng nhẫn nại là sức bật cho chúng tôi đủ ý chí san lấp hố bom mà bà con thôn xóm chưa ai nghĩ đến. Nỗi đau khi cả nhà cùng lê lết cắt từng nhánh lúa nhẹ bấc, mất mùa , chỉ còn vài hạt, vì đất chẳng còn gì cho cây lúa sinh sôi nảy nở. Lúa cắt không đủ bù giống! có nhà bỏ luôn không thèm cắt nữa ! Cánh đồng lổ đổ những đám lúa mất mùa , thiếu phân, thiếu nước. Những nhánh lúa lép xẹp, hạt ngay đơ, chỏng ngọn lên trời như " than thân trách phận". Chúng thấp hơn đầu gối, buộc chúng tôi cùng hàng ngang vừa ngồi vừa cắt . Những nhánh lúa nhẹ đến nỗi không gây được chút cảm giác nào trong lòng bàn tay ! Tôi nhớ hòai những buổi gặt lặng lẻ,- sự lặng lẻ- buồn bả,- chua cay. Chúng tôi im lìm làm việc, những động tác chán nản khó tả, dù không nói nhưng ai cũng mang tâm trạng giống nhau.
Quê nghèo làm gì có trâu bò ! hoàn cảnh bấy giờ trâu bò là cả một gia tài không ai dám mơ. Không trâu bò làm ruộng, mấy cha con chúng tôi chỉ nhờ vào cái cuốc bản thật to để cuốc mau hơn. Mỗi lát cuốc, tôi phải cắn răng, mím môi, cố sức lật cho đươc tảng đất lớn lẫn bùn sình. Sức người và những cái bừa 'cải tiến' chúng tôi đã bừa lại ruộng trước khi cấy lúa. Tôi và mấy đứa em vợ thay phiên nhau chòang những sợi dây thừng qua vai xong cùng nhau kéo những đường xẻ thẳng tắp bỏ đậu phụng mùa đất ẩm. Những lúc này tôi mới nhớ lại bài hát "quê nghèo" của Phạm Duy thời chống Pháp rồi thấy hoàn cảnh hiện tại của chúng tôi thấm thía làm sao !
Trớ trêu thay! những hình ảnh được nhạc sĩ Phạm Duy từng vẽ lên trong bài hát đó lại vận vào số phận chúng tôi không sai chút nào . Tôi càng thấy tội nghiệp, nay thôn xóm đã đủ ăn, dư mặc thì hai đứa em vợ nay đã ra người thiên cổ. Nay tôi thì ra tận xứ người, hai đứa em ở lại đã nằm yên trên đồi hoang lộng gió , nhìn về biển khơi , nhìn lên núi Bể mà cảm thuơng cho những số phận lầm than!
KHOAI CÁ BÙ CƠM
Tôi xin trở về chuyện xưa : chuyện của những
vồng khoai sau mùa ruộng. Rơm rạ còn lại chịu lót làm phân cho mùa khoai đất ẩm. Hình như khoai sắn là những gì đã định phần cho số dân Động Đền còn ở lại như chúng tôi, để thấy rằng lúa cơm là những gì quý giá nhất ! và dầu có 'bong tay mỏi gối' cũng cắn răng san cho bằng cái hố bom to nhất xóm mới nghe ! Trời cũng an ủi cho số phận người dân ở gần biển, nhiều khoai thiếu gạo, nhờ những mớ cá 'tươi rói'- dễ kiếm , trong khi ruộng đồng thiếu thốn bạc màu.
S át bờ biển là những xóm nhà làm nghề biển. Họ ở cạnh nhau, nương vườn nhỏ hẹp. Mùa gió chướng, những ngày không đi biển, họ là những nông dân cần cù. Lúc này họ chịu khó khai phá từng mẫu rừng tràm bên bờ đại dương, biến chúng thành nương khoai xanh ngắt. Khoai Động đền ông Trời bù trừ cũng có tiếng ngon, vì trồng trên thứ đất pha cát, xen lẫn độ mặn của biển.
Mùa rảnh tôi ra biển phụ kéo lưới bờ với ngư dân . Hai toán người già có, trẻ có phụ nhau kéo lưới vào bờ . Thúng không ra xa nên chỉ giăng lưới rùng sát bờ kiếm cá nhỏ thôi . Tình làng nghĩa xóm người nông kẻ ngư ai cũng là lối xóm nhau cả. Mớ cá vụn kéo xong bà con chia nhau sòng phẳng không nề hà kẻ yếu người mạnh. Cứ buổi như thế tôi cũng kiếm được một bao cát cá cơm về cho mẹ tôi làm mắm.
CÚNG CƠM MỚI
đêm chơi vơi gạo cười tươi, như chuyền hơi ấm, ấm lòng người ,,,(HTT)
Thế là nhà vợ tôi cùng tôi đã thành công san cái hố bom. Hố bom đó dĩ nhiên không thể rộng thêm nhưng đất đai cả nhà tôi đổ vào càng lúc càng nhiều . Số phận và kiên trì đã thách đố nhau. Hình ảnh cái hố bom đó đã thực sự biến mất; miếng đất hoang đã hiện thành sào lúa đầu mùa được sức trĩu nhánh. Lúa vàng óng ánh no tròn đầy hạt hòa với niềm vui của ba vợ tôi cùng tôi -người rễ tương lai- cả hai đang đứng bên lề ruộng ngắm say sưa.
Ngày CÚNG CƠM MỚI đến. Ông gia tôi có lệ hay cúng cơm mới sau khi hoàn tất một vụ lúa dù được hay mất mùa. Mùa cúng cơm mới cái năm mà chúng tôi thu hoạch những gánh lúa đầu tiên từ hố bom nhà tôi vừa lấp nó vui vẻ và háo hức thật. Mẹ gia tôi tất tả ra chợ từ sớm, bà cũng vui lây với niềm vui trúng mùa của chồng con. Mâm cơm mới vừa trưa là đã xong để ông gia tôi trước là khấn nguyện tạ ơn thổ thần đất đai sau đó cả nhà sẽ cùng nhau ăn mừng một mùa làm lụng cực nhọc đã qua.
Làm sao chúng tôi không vui do từng giọt mồ hôi cùng bàn tay rát bỏng để kiếm ra hạt gạo. Trong niềm vui đơn sơ - bình dị đó, lòng tôi phát sinh niềm thông cảm cho nỗi cơ cực của người nông dân. Tai tôi như thấm thía nghe văng vẳng đâu đây lời nhạc nồng nàn của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ một nhạc sĩ tài ba sinh ra, lớn lên từ tình cảm quê hương. Đúng quá đi thôi, phải là người nông dân chân lấm tay bùn mới cảm nhận những nhánh lúa vàng đã biến thân cho bao hạt "gạo cười tươi" trong ngày cúng cơm mới. Tôi mới nhận ra được giá trị của cái nghề làm ra hạt lúa cùng cảm thông sâu sắc nỗi nhọc nhằn, lo toan từ những nơi đất hẹp, người đông cùng lúa ruộng bạc màu. Cho đến khi chính vai tôi gánh xong những gánh lúa mùa về mới thấy lòng vui như mở hội.
Những hạt gạo trắng ngần mới thay xong lớp vỏ lúa; chúng vừa rời đồng ruộng chỉ mấy hôm thôi. Giờ đây chúng biến thân thành từng chén cơm thơm ngát cho buổi CÚNG CƠM MỚI. Ông nhạc tôi vui cười liên hoan chén tạc chén thù với người con rể. Còn tôi vừa thưởng thức một buổi cúng cơm mới bên nhà vợ, vừa ngắm lại cánh đồng nhỏ hẹp đang trơ gốc rạ bên hông nhà.
ngày cưới vc người viết 1/1/1983 tại Động Đền (Thôn Cam Bình) Tân Thiện Hàm Tân (nay là Xã Tân Phước)
Trong NGÀY VUI CƠM MỚI , tôi sung sướng khi ngày cưới của vợ chồng tôi gần kề. Đồng cảm từ những hoàn cảnh giống nhau, tôi bước vào làm rể nhà vợ tôi không một điều kiện nào ngoài trừ hai bàn tay trắng cùng một tấm lòng ngay thật.
Giữa cánh đồng là con đường đất đỏ duy nhất dẫn về thị trấn LA GI. Dưới đó là nơi phố thị nhưng không xa vùng này nhiều lắm. Có vài ba con buôn, phương tiện của họ là xe đạp, đang gò lưng cố đạp trong mùa gió ngược. Buôn bán đường xa, những chiếc áo phong sương đang phập phồng bay theo gió. Mùa gió chướng đến rồi. Mấy mảnh đất khô cằn chẳng còn sinh thêm lợi tức gì nữa? Ngoài biển người dân làm cá cũng chẳng hơn gì; sóng lớn bạc đầu thi nhau đập vào bờ. Mấy chiếc thuyền nhỏ thiếu cá đang nhấp nhô theo sóng- nhiều chiếc thúng nay úp phơi trên cát, ít ai ra khơi.
Tôi uống thêm vài ba chung rượu vì muốn vui, muốn "tận huởng" cho trọn vẹn một ngày VUI CƠM MỚI do biết hôm sau sẽ chuỗi thời gian tiếp nối của cơ khổ đang chờ...
Thế mà đã bốn mươi năm vùn vụt trôi nhanh kéo theo bao nhiêu biến đổi cuộc đời. Hình ảnh nghèo nàn của thôn xóm ngày xưa đó nay thay đổi hoàn toàn. Người ta không còn bám theo bờ ruộng hẹp hòi đó nữa. Bao lớp trẻ ra đi tìm đất sống mới, nghề nghiệp và cuộc đời mới. Lớp người già lần lượt cùng nhau từ biệt kiếp nhân sinh tạm bợ để về cõi trời miên viễn. Ông gia tôi hôm nay đã ra đi, giã từ cháu con- vĩnh biệt quê hương thứ hai mà bao chục năm nay người mình quen gọi hai tiếng ĐỘNG ĐỀN.
Động Đền -Bình Tuy, từng gắn bó với bao mảnh đời lưu dân Quảng Trị, trong đó có hình ảnh nhạc phụ tôi hàng ngày cần cù cuốc đất trên đám ruộng pha cát bạc màu, ven biển. Trong bao kỷ niệm vơi đầy đó, tôi không quên hình ảnh cùng tiếng nói cười trong NGÀY VUI CƠM MỚI, như lời nhạc của Hoàng Thi Thơ, chính đó vẫn mãi là "dư âm xa, còn vang mãi trong ánh đêm trăng tà" để mỗi khi sống về kỷ niệm xa xưa dù chan chứa nhiều nỗi nhọc nhằn nhưng lại thấm đượm tình quê ./.
ĐHL EDITION
6/6/2022
Xuân Đinh Dậu 2017: lần cuối nhạc phụ tôi gói bánh tét tại Động Đền Tân Phước La Gi Bình Thuận (có vc người viết về thăm)
*
ĐẤT RUỘNG ĐỘNG ĐỀN
Trong đêm thanh, trăng tàn canh,
bao tiếng ca theo tiếng chày nhanh nhanh
Dư âm xa, còn vang mãi trong ánh đêm trăng tà
(Gạo Trắng Trăng Thanh -Hoàng Thi Thơ)
bao tiếng ca theo tiếng chày nhanh nhanh
Dư âm xa, còn vang mãi trong ánh đêm trăng tà
(Gạo Trắng Trăng Thanh -Hoàng Thi Thơ)
Đất ruộng Động Đền quả thật hiếm hoi cho ai chỉ biết một nghề là làm ruộng. Một dải đất pha cát ven biển Hàm tân, chỉ có biết chăm chỉ làm nông, cần cù, chịu khó, khai hoang tìm kiếm, có thể nói từng tấc đất một mới sống được qua ngày.
Kỷ niệm ở đây tôi không thể nào quên được những năm sau 1980, thời gian tôi có mặt tại "XỨ ĐỘNG"- cái tên do một "tay sáo" có biệt danh là THÀNH TÍN để gọi Động Đền. Anh cũng người gốc phường Đệ Tứ, thị xã Quảng Trị năm xưa theo người Quảng trị đi theo chương trình KHẨN HOANG LẬP ẤP, từng sống gọi thay cho Động Đền.
Kỷ niệm ở đây tôi không thể nào quên được những năm sau 1980, thời gian tôi có mặt tại "XỨ ĐỘNG"- cái tên do một "tay sáo" có biệt danh là THÀNH TÍN để gọi Động Đền. Anh cũng người gốc phường Đệ Tứ, thị xã Quảng Trị năm xưa theo người Quảng trị đi theo chương trình KHẨN HOANG LẬP ẤP, từng sống gọi thay cho Động Đền.
Động Đền hồi này có đến sáu thôn. Người dân phải sống với đám ruộng pha cát bạc màu nhỏ hẹp. Đất ruộng hẹp đến nổi đứng bên này nói vói qua bên kia vẫn rõ giọng. Hàng trăm gia đình cạnh tranh nhau từng tất ruộng, bờ be để sinh tồn. Lại có lúc mích lòng nhau cũng do giành giưtt từng miếng nước đem vào từng miếng ruộng bé nhỏ của họ.
Năm 1974 dân Quảng Trị mới vào khai phá vùng đất này, nó chỉ tốt cho vài năm đầu. Ai còn ở đó đều kể lại chuyện ngày mới di dân vào đó. Hình ảnh những vồng khoai tốt củ, bới lên to chưa từng thấy. Người ta còn kể lại chuyện nhiều bụi sắn, củ nhiều và to đến nổi hai ba người mới nhổ lên được. Đó là chuyện năm sáu năm trước khi tôi ở tù về. Nhưng chuyện sắn khoai, ai là người dân xứ Động cũng còn nhắc lại. Thế nhưng đất hẹp người đông, túng cùng sinh kế có người phải từ giã quê hương gian nan chật vật đó mà ra đi biền biệt. Họ đã vào tận Rạch giá, Bạc liêu nơi ruộng đồng "cò bay thẳng cánh". Cũng có người lìa xa cái xứ mang hai chữ Động Đền ra đi nhưng lại chịu làm phu cao su tại những vùng đất đỏ nông trường tại Long Khánh, Long Thành hay Bà Tô, Xuân Sơn, Ngãi Giao, Bình Giả...
SAN LẤP HỐ BOM
Tôi về với gia đình ba mẹ thì không đi đâu, chỉ biết bám ở lại vào những mét đất ruộng cằn cỗi đó. Tôi tự xem như là "đồng cam cộng khổ" với những ai còn ở lại cho đến ngày lấy vợ lập gia đình. Làm sao quên được ngày tháng cần cù chịu khó ; ba vợ tôi, mấy đứa em vợ, và cả tôi ngày lại ngày san cả hố bom từ lâu biến thành cái hồ ở giữa đám ruộng. Cái hố bom là miếng đất hoang, chẳng ai có gan san lấp, thế mà cả nhà tôi dám làm.
Cánh đồng lổ đổ những đám lúa mất mùa, thiếu phân, thiếu nước.
Tính kiên trì cùng nhẫn nại là sức bật cho chúng tôi đủ ý chí san lấp hố bom mà bà con thôn xóm chưa ai nghĩ đến. Nỗi đau khi cả nhà cùng lê lết cắt từng nhánh lúa nhẹ bấc, mất mùa , chỉ còn vài hạt, vì đất chẳng còn gì cho cây lúa sinh sôi nảy nở. Lúa cắt không đủ bù giống! có nhà bỏ luôn không thèm cắt nữa ! Cánh đồng lổ đổ những đám lúa mất mùa , thiếu phân, thiếu nước. Những nhánh lúa lép xẹp, hạt ngay đơ, chỏng ngọn lên trời như " than thân trách phận". Chúng thấp hơn đầu gối, buộc chúng tôi cùng hàng ngang vừa ngồi vừa cắt . Những nhánh lúa nhẹ đến nỗi không gây được chút cảm giác nào trong lòng bàn tay ! Tôi nhớ hòai những buổi gặt lặng lẻ,- sự lặng lẻ- buồn bả,- chua cay. Chúng tôi im lìm làm việc, những động tác chán nản khó tả, dù không nói nhưng ai cũng mang tâm trạng giống nhau.
Quê nghèo làm gì có trâu bò ! hoàn cảnh bấy giờ trâu bò là cả một gia tài không ai dám mơ. Không trâu bò làm ruộng, mấy cha con chúng tôi chỉ nhờ vào cái cuốc bản thật to để cuốc mau hơn. Mỗi lát cuốc, tôi phải cắn răng, mím môi, cố sức lật cho đươc tảng đất lớn lẫn bùn sình. Sức người và những cái bừa 'cải tiến' chúng tôi đã bừa lại ruộng trước khi cấy lúa. Tôi và mấy đứa em vợ thay phiên nhau chòang những sợi dây thừng qua vai xong cùng nhau kéo những đường xẻ thẳng tắp bỏ đậu phụng mùa đất ẩm. Những lúc này tôi mới nhớ lại bài hát "quê nghèo" của Phạm Duy thời chống Pháp rồi thấy hoàn cảnh hiện tại của chúng tôi thấm thía làm sao !
Trớ trêu thay! những hình ảnh được nhạc sĩ Phạm Duy từng vẽ lên trong bài hát đó lại vận vào số phận chúng tôi không sai chút nào . Tôi càng thấy tội nghiệp, nay thôn xóm đã đủ ăn, dư mặc thì hai đứa em vợ nay đã ra người thiên cổ. Nay tôi thì ra tận xứ người, hai đứa em ở lại đã nằm yên trên đồi hoang lộng gió , nhìn về biển khơi , nhìn lên núi Bể mà cảm thuơng cho những số phận lầm than!
KHOAI CÁ BÙ CƠM
Tôi xin trở về chuyện xưa : chuyện của những
vồng khoai sau mùa ruộng. Rơm rạ còn lại chịu lót làm phân cho mùa khoai đất ẩm. Hình như khoai sắn là những gì đã định phần cho số dân Động Đền còn ở lại như chúng tôi, để thấy rằng lúa cơm là những gì quý giá nhất ! và dầu có 'bong tay mỏi gối' cũng cắn răng san cho bằng cái hố bom to nhất xóm mới nghe ! Trời cũng an ủi cho số phận người dân ở gần biển, nhiều khoai thiếu gạo, nhờ những mớ cá 'tươi rói'- dễ kiếm , trong khi ruộng đồng thiếu thốn bạc màu.
CHIỀU BUÔNG TRÊN BIỂN ĐỘNG ĐỀN HÀM TÂN [hình Đinh thị Hiệp]
Biển Cam Bình lúc bình minh. Ảnh: T.TúMùa rảnh tôi ra biển phụ kéo lưới bờ với ngư dân . Hai toán người già có, trẻ có phụ nhau kéo lưới vào bờ . Thúng không ra xa nên chỉ giăng lưới rùng sát bờ kiếm cá nhỏ thôi . Tình làng nghĩa xóm người nông kẻ ngư ai cũng là lối xóm nhau cả. Mớ cá vụn kéo xong bà con chia nhau sòng phẳng không nề hà kẻ yếu người mạnh. Cứ buổi như thế tôi cũng kiếm được một bao cát cá cơm về cho mẹ tôi làm mắm.
CÚNG CƠM MỚI
Muôn câu hò, hò hò khoan, đang mãi vang trong đêm dài,
Gái trai làng chiều hôm nay đang mãi say theo tiếng chày đêm chơi vơi gạo cười tươi, như chuyền hơi ấm, ấm lòng người ,,,(HTT)
Ngày CÚNG CƠM MỚI đến. Ông gia tôi có lệ hay cúng cơm mới sau khi hoàn tất một vụ lúa dù được hay mất mùa. Mùa cúng cơm mới cái năm mà chúng tôi thu hoạch những gánh lúa đầu tiên từ hố bom nhà tôi vừa lấp nó vui vẻ và háo hức thật. Mẹ gia tôi tất tả ra chợ từ sớm, bà cũng vui lây với niềm vui trúng mùa của chồng con. Mâm cơm mới vừa trưa là đã xong để ông gia tôi trước là khấn nguyện tạ ơn thổ thần đất đai sau đó cả nhà sẽ cùng nhau ăn mừng một mùa làm lụng cực nhọc đã qua.
Làm sao chúng tôi không vui do từng giọt mồ hôi cùng bàn tay rát bỏng để kiếm ra hạt gạo. Trong niềm vui đơn sơ - bình dị đó, lòng tôi phát sinh niềm thông cảm cho nỗi cơ cực của người nông dân. Tai tôi như thấm thía nghe văng vẳng đâu đây lời nhạc nồng nàn của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ một nhạc sĩ tài ba sinh ra, lớn lên từ tình cảm quê hương. Đúng quá đi thôi, phải là người nông dân chân lấm tay bùn mới cảm nhận những nhánh lúa vàng đã biến thân cho bao hạt "gạo cười tươi" trong ngày cúng cơm mới. Tôi mới nhận ra được giá trị của cái nghề làm ra hạt lúa cùng cảm thông sâu sắc nỗi nhọc nhằn, lo toan từ những nơi đất hẹp, người đông cùng lúa ruộng bạc màu. Cho đến khi chính vai tôi gánh xong những gánh lúa mùa về mới thấy lòng vui như mở hội.
Những hạt gạo trắng ngần mới thay xong lớp vỏ lúa; chúng vừa rời đồng ruộng chỉ mấy hôm thôi. Giờ đây chúng biến thân thành từng chén cơm thơm ngát cho buổi CÚNG CƠM MỚI. Ông nhạc tôi vui cười liên hoan chén tạc chén thù với người con rể. Còn tôi vừa thưởng thức một buổi cúng cơm mới bên nhà vợ, vừa ngắm lại cánh đồng nhỏ hẹp đang trơ gốc rạ bên hông nhà.
ngày cưới vc người viết 1/1/1983 tại Động Đền (Thôn Cam Bình) Tân Thiện Hàm Tân (nay là Xã Tân Phước)
Trong NGÀY VUI CƠM MỚI , tôi sung sướng khi ngày cưới của vợ chồng tôi gần kề. Đồng cảm từ những hoàn cảnh giống nhau, tôi bước vào làm rể nhà vợ tôi không một điều kiện nào ngoài trừ hai bàn tay trắng cùng một tấm lòng ngay thật.
Giữa cánh đồng là con đường đất đỏ duy nhất dẫn về thị trấn LA GI. Dưới đó là nơi phố thị nhưng không xa vùng này nhiều lắm. Có vài ba con buôn, phương tiện của họ là xe đạp, đang gò lưng cố đạp trong mùa gió ngược. Buôn bán đường xa, những chiếc áo phong sương đang phập phồng bay theo gió. Mùa gió chướng đến rồi. Mấy mảnh đất khô cằn chẳng còn sinh thêm lợi tức gì nữa? Ngoài biển người dân làm cá cũng chẳng hơn gì; sóng lớn bạc đầu thi nhau đập vào bờ. Mấy chiếc thuyền nhỏ thiếu cá đang nhấp nhô theo sóng- nhiều chiếc thúng nay úp phơi trên cát, ít ai ra khơi.
cánh đồng trong bút ký và ông nhạc của tác giả (1995) lúc tác giả sắp đi Mỹ
Tôi uống thêm vài ba chung rượu vì muốn vui, muốn "tận huởng" cho trọn vẹn một ngày VUI CƠM MỚI do biết hôm sau sẽ chuỗi thời gian tiếp nối của cơ khổ đang chờ...
****
Thế mà đã bốn mươi năm vùn vụt trôi nhanh kéo theo bao nhiêu biến đổi cuộc đời. Hình ảnh nghèo nàn của thôn xóm ngày xưa đó nay thay đổi hoàn toàn. Người ta không còn bám theo bờ ruộng hẹp hòi đó nữa. Bao lớp trẻ ra đi tìm đất sống mới, nghề nghiệp và cuộc đời mới. Lớp người già lần lượt cùng nhau từ biệt kiếp nhân sinh tạm bợ để về cõi trời miên viễn. Ông gia tôi hôm nay đã ra đi, giã từ cháu con- vĩnh biệt quê hương thứ hai mà bao chục năm nay người mình quen gọi hai tiếng ĐỘNG ĐỀN.
Động Đền -Bình Tuy, từng gắn bó với bao mảnh đời lưu dân Quảng Trị, trong đó có hình ảnh nhạc phụ tôi hàng ngày cần cù cuốc đất trên đám ruộng pha cát bạc màu, ven biển. Trong bao kỷ niệm vơi đầy đó, tôi không quên hình ảnh cùng tiếng nói cười trong NGÀY VUI CƠM MỚI, như lời nhạc của Hoàng Thi Thơ, chính đó vẫn mãi là "dư âm xa, còn vang mãi trong ánh đêm trăng tà" để mỗi khi sống về kỷ niệm xa xưa dù chan chứa nhiều nỗi nhọc nhằn nhưng lại thấm đượm tình quê ./.
ĐHL EDITION
6/6/2022
No comments:
Post a Comment