Thursday, August 18, 2022

JOHN E. STEINBECK: THE GRAPES OF WRATH --THÂN PHẬN NGƯỜI OKIES

 

TRUYỆN DÀI John E. Steinbeck: THÂN PHẬN OKIES (TRỌN TẬP)


dịch thuật by Đinh Hoa Lư

 

PAINTED DESERT  gồm một vùng đất đá rộng lớn với diện tích chừng hơn 93.500 mẫu Anh.Painted Desert bao trùm những thực thể thiên nhiên của đá nhiều màu sắc - từ những bãi đá dày sắc xám đến màu đỏ, cam và hồng.
Vị trí phía Bắc Arizona, Desert Painted trải dài từ Công viên Quốc gia Grand Canyon về phía đông đến Công viên Quốc gia Petrified Forest National Park

------------------ 

chú thích: Okies (Oklahoma People) từ kỳ thị viết tắt về một lớp công nhân nông nghiệp nhập cư vào tiểu bang California thập niên 1930. Họ buộc phải di cư từ Oklahoma hoặc các khu vực khác của Great Plains hay vùng Cán Chảo , Panhandles do nạn hạn hán Dustbow trong lịch sử Mỹ và do trang trại họ bị nhà băng tịch thu vào những năm 1930.

------------------------------------


    Đại gia đình Joad di chuyển chậm chạp về hướng tây, vượt qua nhiều rặng núi của Tiểu Bang New Mexico, qua nhiều đồi đá hình kim tự tháp của vùng cao nguyên. Họ phải bò qua vùng đất cao của Arizona và vừa tới một khoảng trống sắp đổ xuống Painted Desert liền gặp một bảo vệ biên giới chận lại:

-Các người đi đâu?

Tom trả lời ngay:

-Đi California.

-Các người dự tính ở lại Arizona bao lâu?

-Không, chúng tôi chỉ đi qua tiểu bang này thôi.

-Chúng tôi không kéo dài thời gian qua đây đâu.

-Các người có mang theo cây cỏ loại gì không?

-Không có thứ cây cỏ nào cả.

-Ta cần khám xét đồ đạc các người.

-Tôi đã bảo với ông, không có loại cây cỏ nào hết mà.

Người bảo vệ biên giới dán một cái nhãn nhỏ trên kính chắn gió rồi bảo:


-O.K. Các người đi đi nhưng tốt nhất phải liên tục di chuyển.

-Chắc chắn là vậy, do chúng tôi quyết đi như thế.


Rồi xe họ bò lên nhiều con dốc phủ toàn những bụi cây thấp xoắn tít. Holbrook, Joseph City, rồi Winslow. Cây cối bắt đầu cao dần, mấy chiếc xe phun hơi ‘hồng hộc’ xem chừng như ‘mệt nhoài’ khi chúng gắng bò lên mấy con dốc. Đến rồi, thị trấn Flagstaff, một thị trấn cao nhất rồi khi đổ dốc hết Flagstaff đó là vùng đại cao nguyên, con đường chạy xa tít biến mất ở phía xa. Nước uống càng lúc càng hiếm dần. Người ta phải mua, từ năm cent, mười cents, rồi đến 15 cents một gallon. Mặt trời hong khô  mọi thứ, chỉ còn là một vùng đá khô khan, những đỉnh nhọn lởm chởm như răng cưa, tất cả hợp lại là một bức tường phía tây của tiếu bang Arizona này. Họ phải chạy xe như bay để tránh ánh nắng và khô hạn. Họ lái suốt đêm, để đến vùng núi vào đêm. Ban đêm xe họ phải bò qua nhiều rặng đá lởm chởm. Đèn gầm xe sáng nhấp nháy lướt qua các viên đá nhạt màu từ hai bên thành đường. Xe trèo lên đỉnh núi trong đêm khuya rồi chầm chậm xuống đèo trong bóng tối. Tiếng xe lăn rào rạo trên lớp đá vụn oatman trải mặt đường. Lúc mặt trời hé sáng thì đã thấy ánh nước của dòng sông Colorado xa xa dưới tầm mắt. 


                                   OLD TRAIL BRIDGE 1930 VÀ XA LỘ 66








Họ lái qua thị trấn Topock. Xe vừa lên cầu thì người bảo vệ biên giới cào đi cái nhãn dán trên tấm kiếng chắn gió. Xe qua cầu, bắt đầu đi vào vùng  hoang vu đầy những khối đá  chớm chở. Quá mệt mỏi trong cuộc hành trình, rồi sức nóng ban mai tăng nhanh, họ buộc phải dừng lại.


Pa kêu:


-Chúng ta sắp đến rồi, đến California rồi!


Mọi người đờ đẫn nhìn những phiến đá nứt nẻ toang hoác, lấp lánh dưới ánh nắng chói chang. Sau khi qua sông, họ sẽ vượt qua bao thành lũy núi non đáng sợ của xứ Arizona đó.


Tom cảnh báo:


-Chúng ta sắp qua sa mạc nên cần đem nhiều nước uống cùng nghỉ ngơi cho khỏe trước đã.


Đường ngang đây chạy nắp theo dòng sông. Buổi sáng, xe chạy tốt, sẽ dẫn tới thị trấn Needles. Từ đó con sông sẽ chảy mạnh hơn len qua những rừng lau sậy.


Hai gia đình Joad và Wilson, lái xe tấp vào bờ sông. Họ ngồi trong xe, trước hết là ngắm dòng sông đáng yêu đang trôi chảy cùng nhiều đám sậy xanh tốt hai bên bờ dđang uốn mình theo dòng nước. Có một nhóm lều vừa cắm trại cạnh bờ sông. Có tới mười một cái lều gần dòng nước, được dựng trên bãi cỏ.


Tom ló đầu ra khỏi cửa xe hỏi:


    -Chúng tôi dừng đây một lát có hề gì không thưa bà?


Một người đàn bà dáng mập mạp, đang đánh bàn chải giặt áo quần trong sô nước, ngước lên:


-Chúng tôi không làm chủ ở đây ông à. Các bạn muốn dừng thì cứ dừng. Sẽ có một cảnh sát tới kiểm tra các bạn.


SÔNG COLORADO và ĐỈNH NÚI NEEDLES-ARIZONA

Nói xong bà tiếp tục xát quần áo  dưới ánh nắng. Xe hai gia đình lái vào một nơi trống gần đó, trên đám cỏ. Hai nhà kéo bạt lều xuống. Nhà Wilson dựng trước, nhà Joad lo căng sợi thừng và phủ tấm bạt lên.


Hai đứa nhỏ Winfield và Ruthie rón rén đi qua rặng liễu tới đám sậy.


Giọng Ruthie nghe phấn kích:


-California đây rồi,  nhà mình đến nơi  rồi!


Winfield vặn và bứt một thân cói lấy chất bột trắng bỏ vào miệng nhai. Hai đứa trẻ lội xuống mé nước, để dòng nước ngập đến bắp chân, cùng yên lặng.


Ruthie chợt hỏi:

-Chúng ta qua sa mạc chưa hả?

-Sa  mạc trông giống cái gì vậy ta?

-Chị không biết. Có lần một người hái thuê bảo rằng có nhiều xương khô khắp nơi trong sa mạc.

-Eo ôi, xương người ư?




-Chị chẳng biết, có thể có nhưng phần nhiều là xương bò.

-Chắc chúng mình sắp thấy vùng đầy xương khô ấy rồi?

-Có thể lắm, chị không chắc. Có thể qua vùng đó ban đêm. Nghe anh Tom nói vậy. Anh Tom nói chúng ta sẽ chết cháy nếu chúng ta đi qua đó vào ban ngày.

-Ôi mát quá!

Winfield thích chí:

-Ôi mát quá,

Cậu ta vừa nói vừa quậy mấy ngón chân xuống lớp cát bờ sông.

Có tiếng Má kêu:

-Ruthie, Winfield trở lại mau!

Hai chị em quay lại, xuyên qua đám lau và mấy cây liễu chầm chậm bước về.


Mấy cái lều khác giờ đang yên lặng. Trong khoảnh khắc, lúc có tiếng mấy chiếc xe trờ tới, có mấy cái đầu thò ra giữa khe hở, rồi lại thụt vào. 

Hai gia đình trong hai lều này đều dậy. Đàn ông tụ tập lại với nhau. Tom lên tiếng trước:

-Con cần xuống sông tắm một lát. Trước khi ngủ con hay tắm. Bà Nội sao rồi? Chúng ta giam mãi bà trong lều?

Pa hướng đầu về lều:

-Ba không biết, xem chừng không ai thức bà dậy cả?

Có tiếng lảm nhảm, kêu rên, từ mái lều vọng tới, Má bước vội vào trong.

Có tiếng Noah báo:

-Bà dậy rồi; không sao. Bà bị nhồi suốt đêm trong xe,  bà xem chừng không tỉnh trí nữa?

- Khổ quá! Nội mệt lả người rồi. Nếu bà không được nghỉ ngơi bây giờ, chắc bà không sống nỗi. Bà đã yếu quá rồi. 

Nào ai đi tắm với tôi không? Tôi tắm xong là tìm bóng cây ngủ một giấc, đợi hết ngày hẳn hay.

Nói xong anh đi ngay. Nhóm đàn ông vội bước theo. Họ cởi áo hết quần áo vắt vào mấy cánh liễu, theo nhau lội xuống làn nước sông cùng hụp xuống. Họ ngâm mình trong làn nước thật lâu, ai cũng nhấn mấy gót chân ngâm sâu trong cát, chỉ còn đầu ló ra khỏi mặt nước mà thôi.

Al khoái chí:

-Tạ ơn Jesus, ta thật thích thế này đây.

Anh chàng bốc một nắm cát đáy xong kỳ cọ khắp người. Họ đều ngâm người như thế trong làn nước, mắt hướng về hướng có mấy đỉnh nhọn nhô lên, một nơi gọi là dãy núi Needles, thuộc Rặng Bạch Thạch (White Rock Mountains)  của bang Arizona.

Tiếng Pa phấn chấn:

-Chúng ta trước sau gì cũng sẽ qua đó.

Bác John vừa hụp xong dưới làn nước vừa nói:

-Ồ, chúng ta đến rồi hả? Tới California rồi mà nơi này nhìn không chút nào trù phú cả?

Tom giải thích:

-Chưa qua sa mạc mà bác, con nghe sa mạc này cũng ‘khốn nạn’ lắm đó bác ơi!

Noah, người anh cả thắc mắc:

-Đêm nay chúng ta qua sa mạc sao?

Tom phụ họa:

-Pa nghĩ sao?

-Ồ, Ba chẳng biết. Chúng có cần nghỉ ngơi, nhất là do sức khỏe bà Nội các con không tốt. Nhưng dù sao ba cũng thích vượt qua cái sa mạc đó cho rồi để sẵn sàng lo toan công ăn việc làm nữa. Nhà mình nay chỉ còn chừng bốn mươi đô la thôi. Ba cảm thấy khi nhà mình đi làm được hết sẽ có tiền lại ngay.

Mọi người ngâm mình trong làn nước sông, cảm nhận được dòng nước trôi qua thân mình. Thầy Đạo duỗi cánh tay cùng bàn tay bập bềnh trên mặt nước. Da thịt mọi người còn màu trắng cho đến cổ và cổ tay. Khuôn mặt và bàn tay ai cũng cháy nám, cùng hình chữ V ở xương quai xanh. Mọi người dùng cát chăm lo kỳ cọ thân mình...


                     "brood sow in the mud" (idiom)

(thành ngữ) Sướng như lợn nái đằm bùn

Tiếng Noal vẻ lười biếng:


-Ôi ước gì ở lại đây nhỉ, ta muốn mãi mãi ở lại đây. Không bao giờ đói và chẳng bao giờ buồn. Ta thích đắm mình trong làn nước này mãi suốt đời, sướng như lợn nái đằm bùn.


Phần Tom ngắm  mấy đỉnh núi nhọn lổm nhổm hiện lên trên mặt sông, của dãy núi Needles hạ nguồn dòng sông rồi lên tiếng:


-Chưa bao giờ chúng ta thấy mấy đỉnh núi nhọn như vầy. Đây là địa hạt của chết chóc. Một địa hạt toàn là xương khô. Chúng ta tự hỏi có bao giờ chúng ta tới một nơi mà con người ta chưa bao giờ sống nếu không chiến đấu sinh tồn với đá cùng sỏi như thế kia. Phải tin rằng, bà con đi làm lụng chúng ta đều ở những vùng đồng bằng cây trái xanh tốt. Ai cũng có căn nhà nhỏ xinh xinh sơn màu trắng như Má hằng ước mơ. Chúng ta phải nghĩ rằng nơi đến của chúng ta không phải như thế này đâu. Mọi người đi làm nghề hái trái cây đều ước mong như thế cả.

Pa phụ họa:

-Hãy yên tâm, cho đến khi tới được California, chúng ta sẽ thấy xứ này đẹp lắm.

-Lạy Jesus, Đây là California rồi mà Pa?


Có hai người bận quần jean cùng sơ mi xanh đẫm mồ hôi bước qua rặng liễu, họ nhìn đám người đang ở trần và lên tiếng gọi:


-Sao bơi ở đây được không?!



Có hai người bận quần jean cùng sơ mi xanh đẫm mồ hôi bước qua rặng liễu, họ nhìn đám người đang ở trần và lên tiếng gọi:

-Bơi ở đây được không các bạn?

Tom trả lời trước:

-Không biết, chúng tôi không cần bơi, dầu sao mát quá chỉ tắm một chỗ thôi.

-Chúng tôi ra tắm, các bạn có ngại gì không?

-Sông này đâu phải của chúng tôi. Chúng tôi nhường cho hai bạn một chỗ đây.


Hai gã đàn ông nghe vậy liền cởi quần lột áo, lội ngay ra tắm. Giờ mới thấy bụi đường nhuốm đầy cẳng chân của họ lên tới đầu gối, bàn chân hai gã trắng bệch,  nhễ nhại mồ hôi. Họ cũng trầm mình trong làn nước, kỳ cọ hai bên sườn. Giờ mới thấy họ là một người cha và một cậu con trai, da họ bị ăn nắng lâu ngày. Họ vừa rên rỉ, làu bàu trong làn nước.

Pa lên tiếng hỏi một cách lịch sự:

-Quý vị đi miền tây hả?

-Không. Hai chúng tôi từ đó về. Chúng tôi về lại quê. Chúng tôi không thể nào kiếm sống ở đó được.

Tom xen vào:

-Quê các bạn ở đâu?

-Vùng Cán Chảo, gần Pampa đó các bạn.

Pa hỏi tiếp:

-Các bạn không kiếm sống được à?

-Không. Hai chúng tôi và mấy đồng hương ở đó đói gần chết. Một thằng do hận thù chúng tôi rồi bỏ đói cả bọn chúng tôi nơi đó.

-Ô bạn biết đó, ông bạn là người thứ hai ta nghe nói như thế. Chuyện gì mà họ thù ghét các bạn đến thế?

Gã kia cộc lốc trả lời của Pa:

-Không biết.

Gã chỉ nói thế, xong lấy hai bàn tay vụp một vụm nước chùi kỹ mặt, xong lại sục mũi và miệng. Làn nước bẩn len qua tóc gã chảy xuống cần cổ.

Pa khẩn khoản hỏi tiếp:

-Xin ông kể tiếp về chuyện đó đi, tôi muốn nghe lắm bạn ạ.

Tom phụ họa:

-Tôi cũng muốn nghe đó ông. Tại sao người miền tây lại ghét các ông vậy?

Gã đàn ông lớn tuổi kia ném cái nhìn sắc bén về Tom:

- Thế anh bạn cũng đi miền tây hả?

-Chúng tôi đang trên đường đi đây ông.

-Thế thì bạn tới California lần nào chưa?

-Không, chúng tôi đây chưa tới đó lần nào.

-Ồ, thế thì cần gì nghe lời nói của ta. Các bạn cứ tới đó hẳn biết thôi.

-Vâng, nhưng có người lại muốn biết cho rõ khi tới đó ra sao đó ông.


                 Bakerfield -California, thập niên 1930

-Ồ, nếu bạn thực sự muốn biết. Ta là người trả lời cho người muốn biết về cái xứ sở đó ra sao. Xứ đó đẹp lắm. Nhưng nơi đó bị đánh cắp lâu rồi. Các bạn phải vượt qua sa mạc và tới cho được Bakersfield mới gọi là tới cái xứ đó. Có thể bạn chưa bao giờ thấy một nơi nào trong lành như thế. Toàn là vườn cây trái, vườn nho, thật là một xứ sở đẹp mà quý bạn chưa hề hình dung ra đâu. Nhưng rồi khi bạn vượt qua vùng đất bằng phẳng có nước từ trên cao ba mươi bộ đổ xuống, một bãi đất bỏ hoang như thế nhưng bạn không thể nào chiếm cứ một chút nào đất đó đâu. Té ra đất của Cattle Company. Và nếu công ty đó không cần bạn làm họ không bao giờ cho bạn làm việc. Đất hoang vậy, nhưng nếu các bạn nhảy vào, chỉ cần trồng một cây bắp thôi là bạn đủ vào tù ngay.

-Ông nói đất đai tốt, sao họ chẳng cần làm gì đất đó?

-Vâng, đúng thưa ngài! Đất tốt nhưng họ chẳng cần làm mới lạ! Ồ, ngài ơi, có một điều sẽ làm ông tức điên lên, mà ông bạn chẳng thấy được. Người ta sẽ tới nhìn vào mắt họ van xin khẩn cầu. Rồi bọn họ sẽ nhìn vào mặt họ và mặt bạn và nói:

-Ta không thích bọn ngươi, một “lũ chó đẻ!”

Rồi bọn cảnh sát ập tới xô đẩy các bạn đi. Các bạn chỉ còn cắm lều dọc đường, rồi bọn nó tiếp tục xua đuổi. Các bạn sẽ thấy nhiều khuôn mặt thù ghét các bạn đến cỡ nào. Đó ta chỉ kể lại cho bạn vài điều như thế thôi. Họ ghét các bạn do họ sợ. Họ biết con người đói khát sẽ vồ bất cứ thứ gì. Bọn họ biết đất đai bỏ hoang kia là tội lỗi và người ta sắp lấy nó. Đồ khốn! Chắc bạn chưa bao bị gọi là OKIE chứ gì?


DUST BOWL 

Tom ngạc nhiên:

-OKIE là gì vậy ông?

-Ồ, Okie được dùng để chỉ các anh, người từ Oklahoma tới. Giờ còn mang ý nghĩa để chỉ thẳng vào các bạn là một ‘lũ chó đẻ’. Okie còn mang ý nghĩa các bạn đều là ‘thứ cặn bã’. Chữ này tự nó không có mang ý nghĩa đó, nhưng cách bọn họ nói mới chính là ý nghĩa như vậy. Nhưng ta không thể nào can ngăn bạn điều gì cả. Các bạn cứ tới đó. Ta nghe có tới ba trăm ngàn đồng hương chúng ta ào tới đó rồi—họ sống chui rúc tồi tàn như bầy heo, lý do mọi thứ ở California đều có chủ hết. Họ  không còn  gì cả. Mọi người giờ đây đều bán mạng cho bọn họ bảo bắt giết hết mọi người trên thế giới này họ cũng phải làm. Giờ đây họ sợ hãi và đang điên lên hết. Các bạn phải tới để thấy cho được, nghe cho được. Ôi cái xứ sở trong lành khốn nạn mà bạn chưa hề thấy sẽ không tử tế gì với bạn với đồng hương chúng ta chút nào đâu. Giờ đây ai cũng đều âu lo sợ hãi do chính họ cũng không còn đối xử tốt với nhau nữa.

Tom nhìn xuống dòng nước, gót chân anh nhấn mạnh vào cát.

-Tôi muốn hỏi ông, giả sử có người làm việc tốt, có để dành chút tiền có thể mua chút đất nào chăng?

Người cha bật cười lớn rồi nhìn qua cậu con trai. Cậu con trai nín lặng bao lâu nay có dịp cười lên đắc chí.

Người cha nói tiếp:

-Anh bạn không bao giờ có công việc nào đều đâu. Bươn chải kiếm cho ra từng bữa ăn đã khó lắm rồi. Làm sao bạn làm nỗi với bọn người luôn luôn đối xử bẩn thỉu, xấu tính với bạn. Hái bông bạn phải cầm chắc trong tay cái cân có lương thiện không trước đã.  Có cân đúng, nhưng có cân luôn ăn gian. Bạn sẽ gặp cân ở đó đều gian hết nhưng bạn không biết cái nào. Bất cứ việc gì cũng thế thôi, bạn không bao giờ làm nỗi với bọn này.

Tiếng Pa chùng xuống:

-Không có ai tốt hết ở đó sao?

-Chắc vậy thôi Ông ơi! thoạt đầu trông vào gì cũng đẹp nhưng rồi các người chẳng dám đụng vào.  Toàn là những rừng cam vàng chín mọng nhưng bên cạnh đó là những tên súng ống đầy người, chúng sẽ giết bạn nếu bạn rớ một trái. Có gã vừa chủ báo cạnh bờ biển nhưng lại sở hữu tới cả triệu mẫu đất…

Thầy Casy bật nhìn lên:

-Cả triệu mẫu đất! Ôi ông ta có thể làm gì với cả triệu mẫu đất trong cái thế giới này?

-Ta chẳng biết. Chỉ biết hắn có được như thế. Hắn ta còn làm chủ vài trang trại,có bảo vệ canh giữ không cho ai vào. Hắn đi quanh trong xe chống đạn. Thời còn làm nhân công cho hắn, nhờ đó mới thấy được hắn. Hắn ta to mập, đôi mắt ti hí bần tiện và cái miệng trông chẳng khác gì 'đít lừa'. Lo lắng làm hắn chết sớm. Có cả triệu mẫu đất trong tay, cứ thế nên lo sợ cho đến chết mới thôi.


Thầy Casy tò mò:

-Hắn làm được cái quái gì với cả triệu mẫu đất thế kia? Hắn muốn gì từ một triệu mẫu đất đó?


Người cha lấy hai bàn tay nhăn nheo trắng bệch ra khỏi nước rồi xòe ra, môi dưới ông ta mím chặt và nghiêng đầu qua một bên vai:

-Ta chẳng biết, ta đoán hắn sẽ nổi điên, chắc chắn là phải nổi điên. Có gã thợ hái trái cho hắn bảo nhìn thấy hắn trông rất điên. Điên khùng và bần tiện.

Thầy Casy chen vào:

-Hắn sợ đến chết phải không?

-Đó là điều ta nghe được.

-Chúa Trời sẽ giết hắn bằng sự Sợ Hãi kia.

-Ta không biết. Chỉ biết hắn rất sợ hãi.

Pa thắc mắc:

-Hắn ta lo sợ điều gì? Có thể con người hắn chẳng bao giờ vui vẻ chứ gì?

Tom nhắc:

-Xem thế mà Ông Nội chẳng bao giờ sợ hãi, dù cận kề cái chết ông vẫn vui vẻ. Có lần Ông và Bạn gặp bọn mọi Navajo trong đêm. Mọi người đều tự lo cho mạng sống của mình dù không ai có thể nhảy vào cứu họ được.

Thầy Casy gật gù:

-Coi bộ đây là một cách sống. Con người vui vẻ yêu đời nhất là chẳng bày trò hại ai mới đáng sống. Những kẻ bần tiện, cô độc, lúc nào cũng không bằng lòng—sẽ chết vì lo sợ.

Pa thắc mắc:

-Ôi một người có tới cả triệu mẫu đất còn không thỏa mãn gì nữa?


Vị thầy mĩm cười, hơi chút bối rối. Ông khoát con bọ đang nổi trên mặt nước ra xa:

-Nếu hắn ta cần một triệu mẫu đất mới giúp hắn cảm thấy giàu, theo ta nghĩ, hắn cần vậy do trong lòng hắn lúc nào cũng cảm thấy quá nghèo. Nhưng giá như trong lòng hắn luôn cảm thấy nghèo thì dù có cả triệu mẫu đất hắn cũng cảm thấy nghèo mà thôi. Có thể hắn ta luôn thất vọng do không có thứ gì giúp hắn ta có cái cảm giác giàu có được. Hắn ta không thể giàu có như Bà Wilson từng tự nguyện cho không cái lều của bà lúc Ông Nội qua đời.

                                             LOÀI CẦY THẢO NGUYÊN  (prarie dog)

 Ta không có ý thuyết giảng gì ở đây, nhưng ta chưa bao giờ thấy kẻ nào cứ mãi lo 'vơ vét' như loài cầy thảo nguyên (prariedog)  nhưng trong lòng chẳng bao giờ thấy thỏa mãn như thế.

Thầy Casy chợt cười:

-Ta nói giống như đang thuyết giáo phải không?


Ánh mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Pa thúc giục:

-Hãy ngụp sâu xuống nước cho mát. Nắng dọi chết hết bây giờ.

Nói xong, ông ngả lưng cho làn nước trôi chầm chậm qua cổ:

-       -Nếu có ai cố làm việc chăm chỉ, chắc hắn không thể bỏ người đó chứ?

Người đó ngồi bật dậy quay đầu về phía ông:

-Này Ông! Ta không hề biết hết mọi thứ. Các người có thể tới đó và kiếm cho ra công việc đều đặn, ta không hề nói dối. Và có thể, các người sẽ không bao giờ có việc. Ta chẳng muốn báo trước các người làm gì. Ta chỉ kể chuyện cho mấy người nghe hầu như mọi người nơi đó, họ quá khốn khổ.

Ngang đây, ông ta ngả lưng vào làn nước:

-Một người không thể biết hết mọi thứ được.

Pa xoay qua Bác John:

-Anh chẳng phải một kẻ nói nhiều, nhưng em quá "bực mình" từ lúc rời nhà đến nay anh chỉ  mở miệng hai lần thôi. Nào, anh nghĩ gì về chuyện nghe hôm nay vậy anh John?

 Bác John phát cáu:

`-Ta chẳng cần nghĩ gì về chuyện hôm nay cả. Chúng ta đang đi tới đó, phải không? Và chẳng có ai bàn ra tính vào hay ngăn cản chúng ta tới đó cả.  Khi chúng ta tới, lúc đó chúng ta biết chúng ta tới. Rồi khi chúng ta kiếm ra công việc, thì chúng ta cứ làm việc, mà giá như chúng ta chưa kiếm ra công việc thì chúng ta cứ tiếp tục theo đuổi (set on our tail). Chuyện hôm nay nghe chẳng ích lợi và chẳng giúp gì cho chúng ta cả.

Tom quay lại, hớp một ngụm nước đầy, phun phì phì vào không khí rồi cười:


-Bác John ít nói, nhưng khi bác nói ra nghe thật chí lý. Vâng đúng, Bác nói rất có ý nghĩa. Đêm nay chúng ta tiếp tục lên đường, được không Pa?


-Được quá đi chứ. Tốt nhất là đêm nay chúng ta phải vượt qua sa mạc...




***

NOAH anh trai của Tom Joad 





Ồ, mình tới bụi cây kia ngủ một giấc đã.


Nghĩ vậy, Tom bèn đứng dậy lội lên bãi cát trênbờ, tới một bụi cây. Anh lấy bộ áo quần móc trên cành, che lên thân mình còn ướt. Bộ áo quần phơi nắng nóng bỏng làm Tom nhăn mặt. 

Những người khác lần lượt lội vào theo Tom.

Hai cha con kia còn ngồi dưới nước, theo dõi gia đình Joad rút đi. Cậu con trai lên tiếng với người cha:

-Lạy Chúa, trước sau gì độ 6 tháng sau chúng ta chắc gặp lại họ thôi.

Người cha đưa ngón trỏ lau khóe mắt:

-Đúng ra cha không nên nói với họ mấy điều kia, thiên hạ ai cũng có lòng tự cao chỉ cho mình là hiểu biết để chỉ dạy cho người khác thôi con à.

-Ô lạy Chúa, họ muốn biết mà ba!

-Đúng, ba biết. Nhưng như lời của người đó nói, bất cứ giá nào họ cũng phải ra đi. Dù ba có nói hết họ cũng chẳng thay đổi ý định, trừ phi chính họ tới đó chính họ phải gặp hoàn cảnh đó mới hiểu ra con ạ.


***


Tom bước dọc theo bờ liễu, sau đó anh tiếp tục bò vào một lỗ trống trong lùm cây rồi nằm xuống. Người anh Noah cũng lò dò lần theo Tom.

Tom bảo anh:

-Ngủ ở đây đi.

-Tom này!

-Gì thế?

-Tom, anh không muốn đi nữa!

Tom ngồi bật dậy:

-Anh nói gì thế?

-Tom, anh chẳng muốn đi nữa. Anh muốn ở lại đây vùng sông này. Anh vừa đi bộ xem dọc theo bờ sông này.

-Anh điên rồi hả?

-Anh sẽ tự lo cho mình. Anh sẽ bắt cá mà sống. Không ai chết đói bên con sông đẹp như vầy.

Tom gắt:

-Còn gia đình, còn Má?

-Anh chẳng giúp ai được cả. Anh không thể nào từ bỏ vùng sông này được.

Mắt Noah lừ đừ, chỉ hé một nửa khi trả lời Tom...

-Em biết sao không? Anh biết mọi người tốt với anh nhưng không ai thực tâm lo lắng cho anh được cả?

-Anh điên rồi!

-Không anh không điên, anh biết con người anh. Anh biết mọi người đều rất buồn vì chuyện này. Nhưng dù sao anh sẽ không đi được. Em nói giúp với Má thế nghe Tom.

Tom khẩn khoản:

-Anh nghe đây!

-Không, chẳng ích gì, anh có thể sống ở đây, dòng sông này. Anh sẽ không đi đâu cả. Anh đi bây giờ đây, nghe Tom, cuối dòng sông này thôi. Anh sẽ bắt cá và kiếm vài thứ để sống, nhưng không rời con sông này đâu. Anh đi đây.


rặng liễu dọc theo con sông

Nói xong, Noah bò ra lỗ trống của bụi liễu.

-Nhớ nói Má giúp anh vậy nhé.

Tom bám theo người anh tới bờ sông:

-Nghe em nói đây, anh cuồng trí rồi …

-Anh là thứ vô dụng thôi em à, anh buồn lắm nhưng chẳng ích gì. Anh phải đi.

Noah quày quả bước xuôi theo dòng sông. Tom đuổi theo người anh một đỗi rồi dừng lại. Noah đi khuất trong bụi cây, thoắt  hiện ra trở lại. Tom lặng người nhìn người anh cả xa dần, cuối cùng mất hút trong rặng liễu dọc theo bờ sông dài thăm thẳm.

Tom dỡ mũ, gãi đầu. Anh trở lại bụi liễu vào lại trong lỗ trống trước đó nằm xuống tìm giấc ngủ.


***

Gramma -bà Nội



Bà Nội nằm thiêm thiếp trên tấm nệm dưới tấm bạt căng tạm, còn Má túc trực ngồi cạnh bà. Không khí càng lúc càng nóng. Tiếng ruồi nhặng kêu  vo vo trong bóng im của căn lều. Thân mình  Bà Nội giờ đây trần truồng chỉ còn một mảnh màn màu hồng đắp cho bà. Cái đầu già cỗi của bà liên tục xoay bên này sang bên kia, lảm nhảm và ú ớ do nghẹt thở.  Má ngồi bệt trên nền đất đang gắng dùng tấm giấy làm quạt xua đuổi đàn ruồi, rồi cố quạt vài làn gió nóng qua lại trên khuôn mặt già nua của Nội. Rose of Sharon, nàng ngồi phía bên kia theo dõi mẹ nàng.

Tự nhiên Bà Nội thét lên, giọng đầy nghiêm nghị:

-Will Will! tới đây, Will…

Mắt bà tự nhiên mở lớn, dữ tợn:

-Bảo hắn, tới đây ngay! Ta sẽ bắt hắn,  bứt hết tóc hắn…

Bà lại nhắm nghiền mắt, đầu gục gặc, qua lại liên tục, lảm nhảm liên hồi. Má vẫn tiếp tục dùng tấm giấy quạt nhanh cho Nội.

Rose of Sharon tuyệt vọng nhìn Bà:

-Nội đau nặng quá rồi!

Má nhướng mắt nhìn mặt con gái. Đôi mắt Má in đậm nét chịu khó, nhưng những vết nhăn trên trán Má càng sâu thêm. Má quạt, tiếp tục quạt. Tấm giấy carton dày, cứ liên tục xua đuổi bầy ruồi.

-Má nhớ lúc con còn nhỏ, Rosasharn à, tất cả mọi thứ xảy ra đều có ý nghĩa của riêng nó.  Lẻ loi tự nó là một thứ, má nhớ như thế.

Lời Má tiếp tục trìu mến dịu dàng với con gái:

-Con sắp sinh con rồi Rosasharn. Con sắp đối diện với lẻ loi hay xa cách. Con sẽ chịu đau đớn và nỗi đau đớn đó lại lẻ loi - một mình. Cũng giống hôm nay, hoàn cảnh chúng ta dưới tấm lều này,  cũng là một tình cảnh lẻ loi trong thế giới này đó con, Rosasharn.

Má tiếp tục quất quạt vào không khí, đuổi tiếng vo vo của con ruồi bu lại. Con ruồi lấp lánh bay quanh cái lều hai vòng xong lẩn mất vào tia sáng chói chang của mặt trời.

Má tiếp tục:

-Cuộc đời lúc nào cũng vậy, mọi chuyện đều phải đến lúc thay đổi. Và khi thay đổi đến thì cái chết cũng là một phần của tất cả cái chết, cũng như sinh đẻ cũng là một phần của tất cả sự sinh đẻ trong thế giới này. Sinh đẻ và chết là hai chuyện mà đời này ai ai cũng phải chịu vậy. Mọi thứ không còn xảy ra lẻ loi nữa. Cô độc cũng không còn cô độc một mình. Đau đớn cũng không là chuyện đau đớn một mình Rosasharn con ạ. Má mong làm sao má có thể nói thật nhiều cho con gái hiểu nhưng chắc má không có khả năng như thế.


Má và Tom Joad 

Giọng bà đột nhiên trìu mến lạ thường. Từng tiếng nói như lời yêu thương ngọt ngào nhất, bà dành cho con gái vào lúc này. Đôi mắt Rosa mờ lệ, những giọt nước mắt ứa ra, nhạt nhòa khi nghe lời tâm tình của người mẹ thân yêu.

Ngang đây Má đưa cái quạt cho con gái:

-Con hãy quạt cho bà Nội con đi. Đây là cơ hội quý báu con ạ. Má mong má nói làm sao cho con hiểu được lòng má.

Mắt đang nhắm nhưng Bà Nội bỗng cau mày ré lên:

-Will! Đứa dơ bẩn! Mầy sẽ không bao giờ sạch sẽ.

Bà lại đưa mấy móng tay nhăn nheo nhỏ bé lên, quơ quào vào cằm. Một con kiến đỏ bò theo vải màn rơi lọt vào nếp nhăn ở cổ bà già. Má nhanh tay bắt ngay con kiến, dùng hai ngón tay cái và giữa bóp nát con kiến, xong chùi ngón tay vào váy của mình.

Rose of Sharon phe phẩy cái quạt. Nàng ngước nhìn má:

-Bà…?

Nhưng tiếng nói của nàng chợt nghẹn ngào.

-Chùi chân ngươi đi, Will—con lợn thối tha kia!

Tiếng Nội vẫn ú ớ kêu la.

Má an ủi con gái:

-Má không biết lúc nào bà hết nóng để tiếp tục mang bà đi đây? Nhưng Má không chắc. Đừng lo quá Rosasharn. Hãy hít vào một hơi thật đầy khi cần và thở ra lúc con cần phải thở ra nghe con.


Có một người đàn bà bận cái váy đen rách, người to lớn, dềnh dàng ngó vào  lều. Đôi mắt bà ta như lờ đờ, vô hồn. Lớp da dưới cằm chùng xuống lủng lẳng thành những túi nhỏ. Cặp môi luôn rung động. Môi trên chùng xuống như tấm màn che chở hàm răng trên. Môi dưới bà ta, theo sức nặng của nó, lại lật ra ngoài làm để lộ cả hàng nướu dưới.


Bà ta lên tiếng chào Má:


-Chào bà, Chào buổi sáng,  Cùng Ngợi Khen Chiến Thắng của Chúa Trời.

Má nhìn lại cộc lốc:

-Chào.

Người đàn bà đó khom người vào lều, cúi thấp đầu nhìn Bà Nội:

-       Lạy Chúa! Chúng tôi nghe gia đình các bạn sắp có một linh hồn sắp về với Jesus đây rồi chăng.

Nét mặt Má đanh lại, ánh mắt sắc nét đáp lại bà kia:

-       Bà tôi chỉ mệt thôi, bà mất sức do đi đường lâu lại gặp trời quá nóng. Bà đuối sức, cần nghỉ ngơi và sẽ bình phục lại thôi.

Người kia vẫn cúi thấp người hơn nhìn kỹ vào mặt Nội trông chẳng khác gì muốn ‘ngửi’ cho bằng được. Xong, bà ta quay lại phía Má, đầu gật lia lịa, môi lắp bắp, hàm run run:

-Đúng là Một linh hồn thương thân yêu sắp về chầu Jesus đây.

Má kêu to:

-Không phải thế!

Bà ta vẫn chầm chậm gật đầu, lại đặt bàn tay mập ú lên trán Nội. Má vội hất tay bà ta ra, cản bà ta lại.

Bà ta vẫn cố bám:

-Đúng thế bà chị à.

-Chúng tôi đây có sáu Thánh Hữu hiện đang ở bên ngoài. Ta sẽ gọi họ cùng hợp sức, góp lời cầu nguyện và xin ân sủng cho người này. Kể cả ta nữa là sáu người, tất cả đều là Thánh Hữu Jehova. Ta sẽ đi kêu họ ngay bây giờ.

Má cương quyết:

-Không, Bà tôi chỉ mệt thôi. Bà không cần buổi lễ này đâu.

Bà ta vẫn lải nhải:

-Không cần lễ? Không cần hơi thở thương yêu của Jesus ư? Bà nói gì lạ thế, bà chị kia?

-Không, không cần thế. Bà tôi chỉ quá mệt mà thôi.

Người đàn bà lạ ném cái nhìn trách móc về Má:

-Bà không phải là tín đồ hả?

-Chúng tôi luôn luôn là tín đồ trung thành, nhưng Nội tôi chỉ mệt do phải đi xuyên đêm. Chúng tôi không muốn gây sự với bà.

-Chẳng phải chuyện gây sự, và nếu có muốn gây sự, chúng ta đây vẫn cố cứu giúp một linh hồn sắp về với Đức Jesus thôi. (Soaring Lamb: Jesus = Who's the Soaring Lamb? (suzannewerkema.com))


tài tử Jane Darwell (1879- 1967) trong vai Ma Joad trong bộ phim The Grapes of Wrath đóng vào năm 1940



Má đứng dậy lạnh lùng:

-Chúng tôi cám ơn bà, nhưng chúng tôi không cần cuộc họp như thế trong lều này.

Bà ta nhìn chằm chặp vào Má một hồi lâu:

-À, chúng tôi không thể giúp một người sắp ra đi không được một mảy may lời cầu nguyện nào ư? Chúng tôi sẽ họp trong lều chúng tôi, nghe chưa bà kia. Nhưng dù sao chúng tôi vẫn tha thứ cho bà, cũng do trái tim bướng bỉnh của bà mà ra cả.

Má ngồi xuống nhìn về hướng Nội. Nét mặt Má vẫn giữ vẻ cứng rắn.

-Nội mệt. Bà chỉ một lý do là mệt đó thôi.

Đầu Nội vẫn lắc gục gặc liên hồi. Tiếng bà vẫn lảm nhảm theo từng hơi thở.

Người khách lạ nện chân bước ra khỏi lều. Má tiếp tục nhìn vào khuôn mặt già nua của Nội.

Rose of Sharon liên tục quạt bớt làn gió nóng.

-Má!

-Gì con?

-Sao Má không cho họ làm buổi lễ cho Bà?

-Má không biết. Đạo Jehova là tốt. Nhưng họ chỉ là người chạy theo thôi. Có nhiều thứ rắc rối cứ đến với má, không biết má còn chịu đựng được không? Má chỉ muốn bay thật xa khỏi đây cho rồi.



Từ xa vẳng lại buổi cầu nguyện và tiếng hát thánh ca của nhóm đạo Jehova. Chỉ còn nghe thoang thoảng âm hưởng bài thánh ca, không ai còn nghe rõ lời. Âm thanh trầm bổng, có lúc cao vút lên, rồi tiếng hát phụ chen vào những khi bản thánh ca đang ngưng. Bè phụ nghe nhịp nhàng mỗi khi tiếng ca bay bỗng cao lên, hay hạ xuống cộng theo âm hưởng ậm ừ điệu nghệ. Tiếng bổng, tiếng trầm, ngắt- ngưng, hay ậm-ừ, tất cả tạo thành một hợp thanh phụ họa. Dần dần từng câu hát bỗng dưng ngắn lại, sắc bén, như một lệnh truyền; âm thanh phụ họa nay lại thành những nốt ai oán. Vần -điệu bỗng nhiên nhanh hơn. Âm thanh nam và nữ nay quyện với nhau làm một. Rồi giữa giai điệu phụ họa chợt một giọng nữ chen vào như than khóc ai oán hay man dại, hung dữ nghe như tiếng kêu khóc của loài quái thú nào đó? Một giọng nữ trầm hơn xen vào, rồi một giọng khác bay bổng cùng một giọng nam khác lướt qua tất cả như tiếng hú của một loài sói. Bè phụ dừng lại, chỉ còn nghe tiếng hú hoang dại từ căn lều đó vọng tới kèm với tiếng thình thịch nện trên nền đất.

Trong lều, Má run rẩy, hơi thở của Rose of Sharon tưởng chừng dứt khoảng.


 Buồng phổi của họ  như muốn nát tan hầu tạo ra tiếng hú cho bài thánh ca đó...


                  Pa và Ma (ba má của Tom)

 Âm hưởng tiếng hát của nhóm tín hữu Jehova làm Má ghê sợ:

-Họ hát thánh ca kia làm Má sợ quá, như có điều không hay xói vào lòng má vậy?

Giờ thì thanh âm kia lại vỡ thành những khúc âm cao vút như tiếng rú inh ỏi của loài linh cẩu, dồn dập càng lúc càng to hơn. Tiếng hát nứt nẻ, vỡ vụn, toàn bộ hợp khúc lại rơi vào giọng điệu sụt sùi, cào xé. Tiếng vỗ tay vào bắp đùi, tiếng nện chân vào nền đất, cùng giọng điệu sụt sùi kia cùng chuyển vào tiếng kêu nho nhỏ của một lứa chó con trước dĩa thức ăn.

Rose of Sharon lo sợ nhưng chỉ biết khóc nho nhỏ một mình. Chân Bà Nội thò ra khỏi bức màn, chẳng khác gì hai que củi cong queo màu xám. Tiếng rên của bà như cõi xa nào vọng lại. Má kéo màn lại chỗ cũ. Tiếng Nội nghe như thở dài, rồi tiếng thở trở nên dễ dàng đều đặn hơn, mắt bà nhắm nghiền. Bà đã ngủ say, cùng tiếng ngáy, miệng há hốc.  Tiếng hát như rên rỉ từ xa vọng lại nhỏ dần cho đến khi không còn nghe được nữa.

Rose of Sharon nhìn Má, mắt nàng còn mờ lệ:

-Con mừng cho Nội quá, thật may, Nội ngủ rồi.

Đầu Má hơi cúi thấp, có chút nào áy náy trong bà:

-Có thể má mắc tội khi nghĩ sai về nhóm người đó. Granma ngủ được rồi.

-Sao má không nhờ Thầy Casy nếu má có tội.

-Má sẽ nhờ thầy thuyết giáo đó, nhưng thầy đó thật kỳ lạ. Cũng vì cái tính lạ đời đó mà má từ chối không cho nhóm người kia tới lều này. Vị thầy này hay lòng vòng, vẫn nghĩ rằng mọi người làm ra điều gì do người ta có quyền để làm. 

Má nhìn xuống hai bàn tay mình,  nói tiếp:

-Rosaharn à, má con mình cần đi ngủ lỡ đêm nay khởi hành, chúng ta cần ngủ.

Nói xong bà duỗi mình nằm cạnh tấm nệm của Nội đang nằm.

Rose vẫn chưa nằm ngay:

-Con cần phải quạt cho Nội má à.

-Bà ngủ rồi. Con cần phải nghỉ cho khỏe.

Người con gái bỗng càu nhàu:

-Má, không biết anh Connie đi đâu lâu rồi, con không thấy?

-Suỵt! hãy ngủ đi đã!

-Má, Connie còn đòi đi học đêm và muốn trở thành nghề gì đó à má.

-Ừ, con có nói với Má chuyện đó rồi. Nhưng dù sao hãy ngủ trước đã.


Rose cũng nằm xuống cạnh tấm nệm bà Nội.

-Anh Connie đang dự định kế hoạch trong đầu. Lúc nào anh ấy cũng toan tính trong đầu. Anh muốn học xong nghề điện sẽ làm chủ một tiệm hàng, rồi sẽ sắm sửa mọi thứ chúng con cần có.

-Cái gì?

 Lời Má ví von sau khi nghe lời tâm sự của con gái:

- Đá Lạnh là thứ cần thiết đầu tiên. Con phải kiếm cho đầy. Mọi thứ sẽ không hư thối nếu lúc đầu con có nhiều đá lạnh…

Bà tiếp tục chắt lưỡi:

-Con nói Connie lúc nào cũng toan tính ư? Thôi tốt nhất bây giờ con hãy ngủ cho khỏe người trước đã!

Rose of Sharon nhắm mắt ngủ. Má trở mình dựa đầu lên tay mình. Bà lắng nghe tiếng thở đều của Nội cùng con gái. Bà đưa bàn tay còn lại đập con ruồi trên trán. Mọi lều trại yên lặng chìm dưới ánh nắng chói chang, chỉ còn tiếng cỏ khô dòn như tiếng dế kêu, tiếng o o của ruồi nhặng nổi lên trong sự yên lặng kia. Má chợt thở ra thườn thượt cùng ngáp dài cố nhắm mắt...


Mới ngủ nửa chừng bỗng có tiếng chân người bước lại gần lều, một giọng đàn ông đánh thức bà dậy:

-Ai ở trong này?

Má bật ngồi lên thật nhanh. Một khuôn mặt đen đúa khom người bước vào. Ông ta mang giày ống  mặc quần kaki và áo sơ mi kaki có cầu vai. Thắt nịt hiệu Sam Browne, đeo một bên khẩu súng lục có bao da. Phía ngực trái trên áo sơ mi có gắn một ngôi sao bạc khá lớn. Cái mũ lưỡi trai lỏng lẻo bật lui sau đầu. Ông ta đánh tay vào lều làm tấm bạt đang căng, rung lên bần bật như mặt trống.

Người đó hạch hỏi thêm lần nữa:

-AI Ở ĐÂY?

-Thưa... ông cần gì?

-Bà nghĩ ta cần gì hả? Ta muốn biết ai đang ở đây biết chưa?

-Ô, chúng tôi chỉ có ba người ở đây. Tôi, thêm một bà nội và con gái tôi.

-Đàn ông các người đi đâu hết?

-Sao? Họ đi tắm hết rồi. Chúng tôi lái xe xuyên đêm mà ông.

-Mấy người từ đâu đến?

-Oklahoma, vùng gần Sallisaw.

-Ồ, vậy thì mấy người không thể ở lại nơi này được đâu!

-Chắc chắn chúng tôi phải đi ngay đêm nay và sẽ vượt qua sa mạc thưa ông.

-Vậy thì tốt. Nếu ngày mai mấy người còn ở lại, ta sẽ đuổi các người. Chúng tao không muốn bất cứ một ai trong các người cắm lều ở đây rõ chưa?


Mặt Má xám ngắt vì giận dữ. Bà lừ lừ đứng dậy. Ngang cái hộp dụng cụ, Má chụp lấy cái cán chảo:


-Này ông, ông đang mang huy hiệu và khẩu súng bên người đó nghe. Ta từ đâu đến ư? Bớt cái giọng ông lại đi!

Nói xong bà cầm cái cán chảo tiến tới.

Gã kia mở nút cái bao da đang đựng khẩu súng:

-Dám tới đây xem nào?

-Ông dọa đàn bà thế hả? May không có đàn ông ở đây, còn không họ sẽ xé ông ra nhiều mảnh. Nếu ở quê ta thứ như ông phải liệu giữ cái giọng lại, biết chưa?

Người đó thụt lùi hai bước:

-A, bà đâu còn ở tại quê bà nữa? Các người đang ở California, chúng tao không muốn bọn Okies chết tiệt các người căng lều ở đây biết chưa?

Đang bước tới chợt Má dừng lại, bối rối, bà lẩm bẩm:


-Okies, Okies!


- Đúng, Okies! Nếu ngày mai các người còn ở đây, Ta sẽ đuổi các người biết chưa!


Hắn ta xoay người bước qua lều bên cạnh, tiếp tục đập vào tấm bạt quát hỏi:

-Ai trong này?


Má từ từ bước vào lại dưới tấm bạt. Bỏ lại cái cán chảo vào hộp dụng cụ, bà từ từ ngồi xuống. Rose of Sharon âm thầm theo dõi hành động mẹ nàng từ lâu. Nàng đã chứng kiến sự kiên cường của người mẹ trên nét mặt người, Rose gắng nhắm mắt lại dỗ dành giấc ngủ.


***


Mặt trời buổi xế trưa đã xuống thấp nhưng sức nóng chẳng thấy chút nào hạ giảm. Trong bụi liễu, Tom đã thức dậy, miệng khô rang, người ướt đẫm mồ hôi, đầu óc chẳng khỏe chút nào sau giấc nghỉ ngơi này. Anh gắng đứng dậy, lê tới dòng nước. Anh cởi hết áo quần lội xuống dòng sông. Ngập mình trong nước, cơn khát của Tom mới tan biến đi. Anh tìm một chỗ thật cạn cho thân mình bập bềnh trong nước. Cho khuỷu tay dựa trên nền cát, anh nhìn mấy ngón chân mình nhấp nhô trên mặt nước.



                 chuột xạ





Có một cậu bé ốm tong teo bò như con thú nhỏ len qua đám lau xong cởi hết áo quần. Xong cậu bé vặn người trườn xuống nước chẳng khác gì con chuột xạ. Đứa nhỏ tự mình trườn theo dòng nước cạn lại giống con chuột xạ đang bơi, chỉ còn mắt và mũi nhô lên mặt nước. Thình lình đứa bé trông thấy đầu Tom nhô lên khỏi mặt nước lại còn nhìn nó, cậu ta ngưng chơi cùng ngồi dậy.

Tom chào đứa bé trước:

-Hello!

-Lo!

-Cháu trông như đang chơi trò “Chuột xạ” chứ gì?

-Ồ, đúng vậy.

Vừa nói cậu bé vừa trờ dần vào bờ sông; thoắt đứng dậy vơ áo quần móc vào cánh tay cùng lủi thẳng vào lùm liễu, đi mất.


Tom lặng cười, bỗng nghe có tiếng kêu to, mừng rỡ gọi tên mình:


-Ôi anh Tom, anh Tom đây rồi!


Anh bật ngồi ngay dậy trong nước và huýt gió thật lớn qua kẽ răng. Nhành liễu chợt lay động, Ruthie người em gái hiện ra nhìn anh.

-Má cần gặp anh gấp, Má cần gặp anh ngay bây giờ.

-Được anh đi ngay đây.

Tom vụt dậy phóng ngay vào bờ; Ruthie kinh ngạc nhìn người anh trần truồng, nhưng cũng chút gì thích thú.

Tom, theo hướng mắt của em gái vừa chạy và nói:

-Chạy mau lên em gái.

Ruthie gắng chạy theo anh trai. Vừa chạy, anh nghe tiếng em gái thích thú gọi Winfield đứa em trai cùng chạy theo. Tom dừng, vắt bộ quần áo nóng bỏng vào thân người ướt đẫm, mát lạnh, anh thong thả đi bộ xuyên qua bụi liễu hướng về tấm lều của gia đình.




Má đang kiếm mấy cành liễu khô nhóm lửa. Bà đang nấu một nồi nước nóng. Má xem chừng an tâm khi thấy con trai trở về.

-Có chuyện gì vậy má?

-Má sợ quá con ạ. Họ, có một cảnh sát vừa tới đây. Ông ta nói chúng ta không được ở lại đây. Lời người đó làm má rất sợ. Má rất lo con có thể đánh người ta nếu con nghe như thế.

-Nhưng họ nói sao đến nỗi Má phải lo là con đánh họ vậy chứ?

Má mĩm cười:

-Ô, gã nói quá tệ, tệ đến nỗi má suýt đánh gã.

Tom túm tay má mình rung nhẹ rồi cười. Anh ngồi xuống trên mặt đất, tiếp tục cười:

-Ồ lạy Chúa, con biết là Má hiền lắm mà. Có điều gì đến nỗi làm má nỗi giận đến mức độ như thế hả má?

Ánh mắt bà trở nên lo lắng:

-Má không hiểu Tom à.

-Lần đầu tiên con thấy Má tức giận cầm cái tay quay xe cự lại gia đình, lần này má lại định đánh cả một cảnh sát?

Anh cười dịu dàng, vươn tay vỗ nhẹ vào bàn chân trần trụi của má mình nói chơi:

-Ôi bà già Chằn Lửa ơi!(A ol’ hell-cat)

-Tom này?

-Gì má?

Lưỡng lự khá lâu má bắt đầu thổ lộ:

-Tom nè, gã cảnh sát vừa rồi, hắn gọi chúng ta..Okies. Gã còn nói, ‘Chúng tao không muốn bọn Okies chết tiệt chúng mày căng lều ở đây’ đó con.

Tom theo dõi nét mặt mẹ mình, bàn tay anh vẫn để yên trên bàn chân trần của mẹ.

-Con có nghe người ta nói lại với con thế rồi à má.

Anh thận trọng hỏi mẹ:

-Má à, má có cho con là đứa bất hảo và cần khóa tay lại không má?

-Không, con đang tự rèn luyện mình mà. Không hề thế, sao con lại hỏi má vậy Tom?

-Ồ, con chẳng biết. Con thật sốc về gã cảnh sát đó.

Má cười vui hơn một ít:

-Có thể Má cũng phải hỏi con như thế bởi vì má cũng suýt lấy cán chảo đánh hắn rồi.

-Má, tại sao hắn lại nói chúng ta không được dừng ở đây hả má?

-Hắn nói họ không muốn bất cứ người Okies chết tiệt dựng lều ở đây. Gã còn dọa là sẽ đuổi chúng ta nếu ngày mai còn có mặt ở đây nữa.

-Nhưng cảnh sát không có quyền gì xua đuổi chúng ta được?

-Má có nói với hắn thế. Nhưng hắn nói chúng ta không phải ở quê nhà nữa. Đây là California, và họ có quyền làm gì họ muốn.

Giọng Tom lưỡng lự:

-Má à, con muốn nói điều này với má. Anh Noah vừa bỏ đi về cuối con sông này rồi. Anh ấy không muốn theo gia đình nữa.

Trong thoáng giây, Má chợt hiểu:

-Tại sao?

Tiếng bà hỏi nghe rất nhỏ.

-Con không hiểu, anh nói anh muốn thế, anh muốn ở lại đây không muốn đi nữa và nhờ con nói giúp với má vậy.

Má lo ngại:

Noah Làm sao kiếm ra miếng ăn được?

-Con chẳng rõ, nhưng anh ấy nói anh sẽ đi bắt cá mà sống.

Má nín lặng một lúc:

-Gia đình tan nát hết rồi, Má chẳng biết má còn  có thể suy nghĩ điều gì nữa không. Má cảm thấy má không thể suy tính gì thêm được nữa. Quá nhiều điều đến với nhà mình rồi con ơi!

Giọng Tom áy náy:

-Anh ấy sẽ ổn thôi má à, Anh là người lạc quan vui vẻ mà má.

Má hướng mắt ra dòng sông, đôi mắt thoáng nét buồn thăm thẳm:

-Xem chừng má không còn sức nào để suy nghĩ gì thêm được rồi con à.

Tom hướng về dãy lều, thấy hai đứa em đang đứng trước một mái lều và nói chuyện bình thường với ai bên trong. Ruthie tay vân vê cái váy, trong khi Winfield đang lấy ngón chân móc cái lỗ trên nền đất. Anh lên tiếng gọi em gái:

-Em ơi, Ruthie!

Cô bé ngước lên, vội bước nhanh về anh trai, Winfield vội chạy theo sau. Đợi em đến gần, Tom liền bảo em:


-Em đi kêu tất cả nhà mình. Mọi người đang ngủ dưới mấy lùm liễu đằng đó. Bảo họ về gấp. và Winfield nữa em đi báo gia đình bác Wilsons bảo chúng ta đi ngay bây giờ.


Hai đứa nhỏ xoay người chạy đi gấp…



cảnh di dân thập niên 1930 qua miền California 

Tom chợt nhớ ra:

-Má, bà Nội sao rồi?

-Ồ, bà Nội hôm nay ngủ được. Có thể bà sẽ đỡ hơn. Bà vẫn còn ngủ.

-Tốt quá. Còn bao nhiêu thịt heo hả má?

-Không còn nhiều, còn khoảng góc tư con heo thôi.

-Cũng hay, mấy thùng không kia mình đựng cho thật đầy nước. Chúng ta rất cần mang theo nhiều nước.

Hai mẹ con nghe tiếng Ruthie đang réo gọi người nhà đằng bụi liễu phía sông.

Má dùng que khơi lại ngọn lửa, tiếng lách cách bắn lên đáy cái nồi đen.

-       Má cầu ơn Chúa cho làm sao cho nhà mình được nghỉ ngơi, Má cầu ơn Jesus ban phước cho chúng ta tới được nơi vừa ý.


Mặt trời đã lặn phía sau rặng núi cháy bỏng và nứt nẻ phía tây. Cái nồi trên ngọn lửa giờ đang sôi sùng sục. Má bước vào lều, bọc một mớ cũ khoai tây trước cái tạp dề vội bước ra thả vào nồi nước.

-Má lạy ơn Chúa cho chúng ta tới nơi nào để giặt được áo quần. Gia đình ta chưa bao giờ chịu cảnh dơ dáy như thế này? Ngay mấy củ khoai cũng không có nước mà rửa trước khi luộc. Đôi lúc má tự hỏi, sao chúng ta đau khổ như thế này hả Tom?

Mấy người đàn ông từ rặng liễu, nối đuôi nhau trở về. Mắt họ còn ngái ngủ, mặt ai cũng đỏ chạch như phồng lên do phải ngủ ngày trong nóng nực.

Pa lên tiếng hỏi ngay:

-Có chuyện gì vậy?

-Chúng ta phải đi. Cảnh sát họ bảo chúng ta phải đi. Vượt sa mạc trong đêm khá thuận lợi. Chúng ta đi qua cho được sa mạc cũng mất ba trăm dặm đường.

-Thế mà ba cứ tưởng chúng ta được nghỉ ngơi ở đây?

-Ôi, chúng ta không nghỉ được đâu, chúng ta phải đi ba ơi. Noah không đi nữa, anh ấy theo dòng sông này đi mất tiêu rồi!

-Không đi? Chuyện quái gì với nó vậy? Ôi lỗi này là ở ta.

Giọng ông vẫn ân hận:

-Đứa con kia là lỗi lầm của ta mà ra cả.

-Không phải thế.

-Thôi ta không muốn nói thêm nữa, ta không thể…lỗi của ta.

 Tom quyết định:

-Thế thì nhà mình phải đi ngay lập tức.

Wilson bước tới, lên tiếng sau cùng:

-Nhà chúng tôi không thể đi được, các bạn à. Sairy vợ tôi trở nặng rồi. Vợ tôi cần ở lại. Vượt qua sa mạc chắc vợ tôi chẳng còn sống được đâu!

Mọi người đều nín lặng.

-Cảnh sát bảo họ sẽ đuổi chúng ta nếu ngày mai còn ở lại đây.

Ông Wilson vẫn lúc lắc đầu. Mắt ông đầy ân hận, khuôn mặt xám xịt của ông ta càng xanh xao thêm:

-Vợ chồng tôi đành phải chịu vậy. Sairy không còn sức đi nỗi. Nếu họ bỏ tù chúng tôi, tại sao họ phải bỏ tù? Vợ tôi đau yếu cần nghỉ mới mạnh lại được mà?

Pa xen vào:

-Có thể chúng tôi phải đợi ông bà để cùng nhau đi…

Wilson cương quyết:

-Không thể thế được. Các bạn rất tốt với vợ chồng tôi; nhưng các bạn có thương cũng không thể trì hoãn thêm được. Các bạn phải tiếp tục lên đường để kiếm cho ra công việc mà làm. Chúng tôi không thể vì mình mà níu kéo các bạn ở lại được!

-Nhưng hai bạn không còn gì cả mà?

Wilson mĩm cười:

-Đừng nói chuyện không còn gì cả. Bạn mang chúng tôi theo dù không phải là bổn phận của mình thế điều làm chúng tôi suy nghĩ. Chớ để chúng tôi trở thành người ích kỷ chỉ vì mình. Các bạn phải đi ngay nếu không đi thì xem như tôi đây quả là người ích kỷ và điên rồ mà thôi.

Má ra dấu cho Pa, kéo ông vào lều cùng nói thì thầm gì đó.

Ông Wilson quay sang thầy Casy:

-Sairy mong thầy tới thăm bà ấy một lát, thưa thầy?

-Vâng được thôi.

Nói xong vị thầy theo ông Wilson tới lều xám và hẹp của hai vợ chồng. Ông chồng gạt nếp gấp của tấm lều qua bên cùng bước vào. Bên trong vừa tối cùng nóng nực. Tấm nệm trải trên nền đất xung quanh ngổn ngang vài thứ đồ đạc, vừa đem xuống buổi sáng. Bà Sairy nằm trên, đôi mắt sáng và mở rộng. Vị thầy đứng yên cúi xuống nhìn bà, cái đầu to lớn của thầy cong xuống, nổi bật những sợi gân dọc hai bên cổ. Thầy cởi mũ cầm ở tay mình.

-Chồng tôi có báo chúng tôi không theo được chuyến đi này phải không thưa Thầy?

-Vâng đúng, ông có báo vậy đó bà.

Bà Sairy tiếp tục giọng nói rất ngọt ngào:

-Thưa tôi rất muốn đi cùng. Nhưng tôi biết tôi không còn sống tiếp để đi tới cho được phái đó còn ông chồng tôi dù sao cũng có khả năng tới được. Nhưng ông ấy không đi do ông không hiểu được. Ông ấy cứ cho rằng tôi sẽ bình phục thôi. Ông không biết nên mới nói không đi. Tôi biết ông chồng tôi bướng lắm. Tôi mong thầy đến và giúp ban cho tôi một lời cầu nguyện, thưa thầy.

Thầy Casy nhỏ nhẹ trả lời:

-Ta không còn là một vị thầy thuyết giáo nữa, nên lời cầu nguyện của ta có ích gì đâu?

Bà Sairy liếm môi:

-Lúc Ông già vừa qua đời chính tôi có mặt ở đó, và thầy có cho lời cầu nguyện mà thầy?

-Ồ đó không phải là lời cầu nguyện bà ạ.

-Chính đó là lời cầu nguyện thưa thầy.

-Không thưa  bà, đó không phải là lời cầu nguyện của một vị thầy thuyết giáo ban ra.

-Tôi nghĩ rằng đó là lời cầu nguyện rất lành, mong thầy cứ cầu vậy giúp tôi nghe thầy?

-Ta không biết phải nói gì với bà đây?

Mắt bà Sairy nhắm nghiền chừng một phút sau chợt mở ra:

-Thầy hãy tự nói với lòng mình. Thôi chẳng cần nói thêm lời gì nữa. Không cần nữa.

Thầy Casy cố bào chữa:

-Chúa chẳng còn trong ta nữa.

-Thầy vẫn còn Chúa trong lòng. Đừng nói khác đi nếu thầy chưa bao giờ thấy Chúa giống gì.

Vị thầy càng cúi đầu thấp hơn. Ánh nhìn của bà chợt một thoáng nào đó tinh anh lẫn lo ngại. Cho đến khi vị thầy ngẩng đầu lên người bệnh đột nhiên an nhiên tỉnh táo hơn cũ.

-Tốt lắm, vậy là đủ rồi thầy. Tất cả chuyện tôi cần chỉ cần ai đó đến thật gần thật đủ gần để rồi cầu nguyện.

Người thầy đạo vẫn lắc đầu như tự đánh thức chính mình:

-Ta không hiểu chuyện gì ở đây cả.

Nhưng người đàn bà kia đáp lại:

-Vâng thầy hiểu mà, phải không thầy?

-Ta biết, ta biết nhưng ta chưa hiểu hết chuyện gì. Bà có thể nghỉ ngơi vài ngày và bình phục thôi mà?

Bà Sairy lặng lẻ lắc đầu, cái lắc đầu thật chậm, từ bên này sang bên kia:

-Tôi đau đớn toàn thân, khắp từng mẫu da thịt thầy ạ. Bao lâu nay tôi biết trong người tôi ra sao, nhưng tôi không thú thật với chồng. Do tôi biết ông ấy sẽ rất buồn rồi chẳng biết xoay xở ra sao? Có thể trong đêm nay thôi, lúc ông ấy đang còn ngủ và khi thức dậy thì mọi sự không  còn trở nên quá đau buồn tệ hại gì nữa…

------------------------------------ 

"Johanna Maria Lind (sinh 6 tháng 10 năm 1820 – 2 tháng 11 năm 1887), nổi tiêng và được biết đến nhiều hơn với tên Jenny Lind, là một ca sĩ opera người Thụy Điển, thường được biết đến với tên gọi "Dạ oanh Thụy Điển". Là một trong những ca sĩ được đánh giá cao nhất trong thế kỷ 19, bà đã biểu diễn các vở opera soprano trong opera ở Thụy Điển và khắp Châu Âu, và bắt đầu chuyến lưu diễn vòng quanh nước Mỹ bắt đầu năm 1850. Bà là thành viên của Học viện Âm nhạc Hoàng gia Thụy Điển từ Năm 1840.Năm 1850, Lind đến Mỹ theo lời mời của người dẫn chương trình P. T. Barnum. Cô đã trao 93 buổi hòa nhạc quy mô lớn cho anh và sau đó tiếp tục đi tour dưới sự quản lý của chính cô. Cô kiếm được hơn 350.000 đô la từ những buổi hòa nhạc này, tặng tiền cho quỹ từ thiện, chủ yếu là học bổng cho các trường học tự do ở Thu Sweden Điển. Với người chồng mới, Otto Goldschmidt, cô trở lại châu Âu vào năm 1852, nơi cô có ba đứa con và đã tổ chức các buổi hòa nhạc trong hai thập kỷ tiếp theo, định cư ở Anh năm 1855. Từ năm 1882, trong một vài năm, cô là giáo sư hát tại Đại học âm nhạc Hoàng gia ở London..."

Trích từ Wikipedia  Jenny Lind – Wikipedia tiếng Việt

 --------------------------------------- 

-Bà mong ta ở lại và không đi tiếp nữa chăng?

-Không, không phải thế. Tôi chỉ nhớ và kể lại thời tôi là người con gái nhỏ, tôi chỉ biết ca hát. Bạn bè xúm lại quanh tôi, khen tôi đẹp và còn hát hay chẳng khác gì Jenny Lind một ca nhân nổi tiếng. Bạn bè thường tụ họp để nghe giọng ca của tôi. Họ đứng quanh, còn tôi lo hát. Tại sao thầy biết không? Chúng tôi cần sự gần gũi như vậy, sự gần gũi đến mức thầy chắc chưa bao giờ thấu hết. Tôi thật cám ơn họ, những người từng bâu quanh, sũng ái tôi và thật lòng thưởng thức giọng tôi ca. Sự gần gũi đó còn giá trị hơn nhiều so với những lúc tôi ca trong hí viện. Họ mới chính là sự kết nối toàn mỹ và không còn chút cách biệt gì giữa tôi và họ. Đó là lý do tôi cần thầy hôm nay tới thật gần gũi để ban cho tôi một cầu nguyện qua sự gần gũi tôi cần giống ngày xưa họ gần tôi, nghe tôi hát. Chính đó là sự hợp nhất của một hình thức cầu nguyện, thưa thầy. Hát và cầu nguyện đều là một

Ước gì, lúc đó có sự hiện diện của thầy để nghe tôi hát.

Vị thầy nghe ngang đây, lặng người cúi đầu thật thấp nhìn thật sâu và đôi mắt người bệnh, sau cùng thì thầm:

-Thôi tạm biệt Sairy!

Người đàn bà gật đầu nhè nhẹ, đôi môi bà giờ mím chặt. Thầy đạo nhẹ nhàng từ biệt căn lều tối om bước ra vùng sáng chói chang bên ngoài...


Nhóm đàn ông lo bỏ đồ đạc lên xe. Bác John ngồi trên cao, phía dưới mấy người khác chuyền đồ đạc lên cho ông. Bổn phận ông phải lo xếp mọi thứ thật cẩn thận, gọn gàng giữ mặt trên thật phẳng. Còn góc tư thùng thịt heo muối Má đổ hết vào cái chảo lớn, Tom và Al đem hai cái thùng dầu không ra sông rửa sạch xong cột chúng vào thành xe, xong lấy gàu múc nước sông đổ đầy xong lấy vải bạt cột miệng phòng nước trào ra ngoài lúc xe chạy. Chỉ còn tấm bạt lều và nệm của bà Nội còn chờ xếp đặt sau cùng.

Tom tính toán:

-Chở nặng thế này, đầu máy xe chắc chắn phải nóng lắm. Chúng ta cần mang thật nhiều nước mới được.

Phần Má trong lều lo vớt mớ khoai tây luộc ra hết, xong bà đem ra nửa túi khoai luộc cùng nồi heo muối. Cả nhà đứng ăn, bàn chân nhúc nhích, hai bàn tay phải chuyền củ khoai nóng qua, lại cho khoai nguội bớt…

Má  bước nhanh tới lều ông Wilson, nói gì ở đó khoảng mười phút, xong bà bước ra vẻ mặt trầm lặng.

-Thôi giờ nhà mình lên đường được rồi.

Đàn ông lo bước tới lều. Nội vẫn còn ngủ, miệng vẫn há rộng. Họ cùng nhau đỡ nguyên tấm nệm Nội đang nằm trên, cố nâng nhẹ nhàng tấm nệm lên phần trên cùng của chiếc xe tải. Hai ống chân khẳng khiu của Nội thò ra ngoài, bà chau mày trong giấc ngủ nhưng thật may, Nội không tỉnh dậy.

Bác John và Pa lo cột chặt tấm bạt trên một cái giá chữ thập tạo thành cái lều nhỏ trên nóc đống đồ, xong neo xuống hai thành xe, buộc chặt nó. Mọi thứ đã xong, Pa lấy trong ví ra hai tờ bạc giấy nhàu nát. Ông đi lại lều của người bạn Wilson và chìa ra:

-Cả nhà chúng tôi mong bạn hãy cầm tạm chút quà này cùng…

Ông chỉ vào mớ thịt và khoai vừa luộc …thứ này ăn tạm!

Ông Wilson lắc đầu lia lịa:

-Tôi không lấy đâu. Các bạn không có nhiều mà phải làm như vậy?

Pa khẩn khoản:

-Chúng tôi có đủ để tới đó mà. Chúng tôi đâu phải có chừng này là hết. Chúng tôi sẽ đi làm ngay mà bạn.

Wilson vẫn cương quyết:

-Tôi không nhận đâu, bạn làm thế sẽ biến tôi thành thứ bần tiện mất thôi.

Má nghe vậy liền lấy hai tờ bạc trong tay Pa, gấp lại ngay ngắn, xong bà dằn cái nồi thịt heo lên trên:

-Chúng tôi xin đặt ở đây nhé. Nếu bạn không nhận cho thì kẻ khác lại lấy mất nghe ông Wilson.

Ông Wilson, đầu vẫn cúi xuống, quay người lại lều; ông bước vào bên trong, khoảng hở tấm bạt buông lại sau lưng ông.

Toàn gia đình Tom Joad lặng lẽ chứng kiến phút giây chia tay, chợt Tom lên tiếng:

-Thôi chúng ta lên đường, chắc là gần bốn giờ chiều rồi!

Cả nhà leo lên xe. Má ngồi trên cao cạnh Nội. Tom, Al, và Pa ngồi ở ghế phòng lái. Winfield được ngồi trên đùi Pa. Connie và vợ Rose of Sharon ngồi dựa lưng vào thành phòng lái. Thầy Casy với bác John cùng Ruthie ngồi trên đống đồ hỗn độn sau xe.

Pa gọi thật to:

-Tạm biệt Ông và Bà Wilson nhé!

Chẳng có tiếng trả lời từ mái lều đó. Tom mở máy, chiếc truck rùng rục, lạng choạng lên đường. Vừa khi chiếc xe bò được lên con đường gồ ghề hướng về Needles để ra Xa Lộ, Má vẫn ngoái nhìn lui.

Bà nhìn thấy- Wilson đứng yên trước lều, tay cầm mũ, chằm chặp nhìn theo xe. Ánh chiều buông trên nét mặt ông. Má vẫy tay chào lần nữa, ông vẫn lặng yên không chút gì đáp lại.

Tom cho xe chạy số hai trên con đường lổm nhổm để bảo vệ cho bộ nhún của xe khỏi hư. Tới được Needles, Tom ghé xe vào một tiệm sửa xe kiểm soát lại hơi trong mấy cái bánh xe sờn rách, coi lại cái bánh xe dự phòng cột chặt đằng sau. Anh còn lo đổ đầy bình xăng, còn mua thêm hai thùng xăng loại 5 gallon dự phòng, cùng một thùng loại hai galon dầu máy. Anh lo đổ đầy két nước, kiếm một bản đồ cùng nghiên cứu đường đi.

Cậu thiếu niên giúp việc cho trạm sửa xe, trong bộ đồng phục trắng, nét mặt thật khó chịu cho đến lúc trả tiền mới hết.

-Đi như thế các người chắc chắn KHÔNG SỢ à?

Tom đang chăm chú trên tấm bản đồ:

-Cậu nói thế có ý gì?

-Ô, sắp vượt qua sa mạc trong chiếc xe ‘gà tàng’ này sao?

-Cậu có qua lần nào chưa?

-Có chứ, qua nhiều lần rồi nhưng không đi bằng chiếc xe hư nát như vậy đâu!

Tom chống chế:

-Nếu xe hư có thể có người giúp đỡ thôi.

-Ồ, hi vọng thế. Nhưng người ta ai cũng sợ ngừng xe ban đêm để giúp ông lắm. Chính tôi cũng ghét ngừng như vậy. Bởi vì chúng tôi rất sợ.

Tom cười:

-Khi bạn không thể làm gì hơn thì không còn phải sợ nữa. Dù sao cũng cám ơn anh bạn. Chúng tôi phải gắng mà lết thôi.

Nói xong, Tom leo lên xe lái đi.

Cậu nhỏ trong bộ đồ trắng bước vào trong tòa nhà làm việc bằng tôn. Bên trong còn có một cậu khác đang bận rộn với đống hóa đơn:

-Lạy Chúa, bọn họ ăn mặc trông khó coi quá!

-Phải bọn Okies không? Chúng nó trông bần hàn quá!

-Lạy Jesus, tao rất ngán đi trên chiếc xe ‘gà tàng’ như thế.

-Ồ, mầy và tao đều có ý thức. Nhưng bọn “chết tiệt” Okies kia biết ý thức là cái quái gì đâu? Bọn họ không còn là người đâu. Nếu người thì không ai phải sống như vậy. Con người chịu được cái cảnh dơ dáy và thê thảm như thế được. Bọn chúng quả là một “đám khỉ đột” không hơn không kém.

-Tao cũng giống mầy , tao rất mừng là chưa hề vượt qua sa mạc lần nào trong chiếc xe Hudson Super-Six 'gà tàng' như thế. Ôi tiếng máy nó nghe chẳng khác gì cái máy xay lúa không bằng?


Nói xong cậu kia tiếp tục dò lại tập hóa đơn. Một giọt mồ hôi khá lớn lắn theo ngón tay dò tìm của cậu ta, rơi xuống tờ hóa đơn màu hồng.

-Mầy biết, bọn họ không gặp nhiều tai nạn. Bởi do chưa gặp tai nạn nên bọn chết tiệt đó chưa biết thế nào là nguy hiểm. Lạy Chúa Toàn Năng, Bởi vì bọn họ chỉ biết có ngần ấy thôi nên chưa thấm. Thế thì bận tâm làm gì.

-Tao chẳng bận tâm, chỉ đặt vào trường hợp mình thôi. Nhưng tao sẽ không bao giờ muốn thế.

-Cũng do mầy biết hơn. Bọn họ thì chẳng biết chút nào cả vậy thôi.

Nói xong, cậu ta lấy tay áo chùi giọt mồ hôi còn đọng trên tờ hóa đơn màu hồng đó.


***


                                                                cây sage và họ dầu tại sa mạc

 Chiếc truck lái vào con đường rồi bắt đầu leo lên dãy núi dài, xuyên qua nhiều vách đá nứt nẻ, nham nhở. Máy xe nóng lên thật mau, lập tức Tom giảm tốc độ cho xe chạy thư thả. Vượt lên con dốc dài những cơn gió xoáy, giật từng hồi thổi qua một vùng đất chết, cháy xám bạc phếch, cơ hồ không còn một sinh vật nào sống nỗi trên vùng đất này. Tom liên tục cho xe nghỉ trong ít phút để máy nguội bớt xong tiếp tục chạy lại. Họ lên được đỉnh đèo vừa lúc mặt trời còn cao, mọi người đều có cơ hội nhìn xuống sa mạc trước mắt. Trước mắt họ xa nhất là một rặng núi đen ngòm, môt sa mạc màu xám đang phản chiếu lại ánh vàng rực của mặt trời. Sa mạc chỉ có vài bụi cây thưa thớt sóng sót, cây bông sô và vài bụi cây họ dầu greasewood in vài cái bóng đậm lẻ loi trên nền cát xen kẽ vài miếng đá vụn rời rạc đó đây. Ánh nắng chói chang vẫn chiếu thẳng xuống đỉnh đầu. Tom giữ tay lái trước khi mắt nhìn rõ mọi vật trước mắt.  Họ đã vượt qua đỉnh núi và khi xe thả dốc giúp máy xe bớt nóng. Con dốc đổ xuống chạy dài cho đến khi chạm mặt sa mạc đến lúc này cái quạt động cơ bắt đầu chạy ngược giúp làm nguội két nước. Trong băng ghế tài xế, Tom, Al và Pa cùng em nhỏ Winfield đang ngồi trên đùi Pa đều ngắm được ánh mặt trời chói chang đang hạ dần, tất cả con mắt đều trơ lại, những khuôn mặt cháy nám ướt đẫm mồ hôi. Những vùng đất cháy nắng, những mãng đồi nham nhở lan xa làm cảnh vật trở nên ghê rợn hơn trong ánh nắng đỏ loét của mặt trời đang thấp dần.



                   cây  sage (bông sô)  sa mạc

Al buộc miệng:

-Ôi lạy Chúa, thật là vùng đất khủng khiếp. Làm sao con người có thể đi bộ qua đây được?

-Thế mà có người vẫn qua được, nhiều người quá bộ qua đây. Nếu họ đi được thì chúng ta vẫn có thể đi được.

-Nhưng phải có lắm người chết chứ.

-Ồ đương nhiên phải chấp nhận thôi, có khó khăn nào mà không mất mát đâu?

Al im lặng một lúc, sa mạc đỏ hoét lần lượt quét qua. Al lãng qua chuyện khác:

-Chắc chúng ta khó gặp lại gia đình Wilson quá anh Tom hả?

Tom thoáng liếc vào đồng hồ đo dầu.

-Anh có linh cảm sao sao sao,  do không thấy Bà Wilson, Anh linh cảm chắc có điều gì chẳng lành cho bà cũng nên?

Winfiel chợt kêu to:

-Pa ơi, con muốn ra ngoài…

Tom liếc qua đứa em út:

-Chắc mọi người nên xuống xe một lát trước khi chúng ta tạm nghỉ để chuẩn bị chạy đêm nhé.’

Nói xong anh cho xe chậm lại và dừng hẳn. Winfield vội bò ra ngay để đi tiểu bên đường.

Tom thò đầu ra gọi:

-Có ai muốn đi nữa không?

Bác John trả lời ngay:

-Mấy người trên này nín tiểu lâu rồi đây!

Pa bảo cậu út:

-Winfield còn trèo lui sau ngồi, con ngủ trên chân ba lâu quá rồi.

Đứa nhỏ vâng lời, vội cài nút cái quần treo xong dùng hai tay và đầu gối nó trèo lui sau, leo lên đống đồ, bò qua tấm nệm Nội đang nằm tới ngồi với Ruthie.

Chiếc truck tiếp tục chạy suốt buổi chiều, mặt trời đang xuống phía chân trời chuyển sa mạc trở thành màu đỏ rực.

Ruthie lên tiếng hỏi anh:

-Sao chúng ta chưa dừng nghỉ ở đây hả?

-Anh chưa muốn, do đây không bằng phẳng chút nào khó ngả lưng nằm lắm em à.

Chợt Ruthie tỉ tê bên tai tài xế:

-Ô sao anh Tom không giỡn với em một chút? Giả tiếng kêu hay nói chuyện cho em ngủ. Em muốn ngủ một giấc tỉnh dậy là tới nơi rồi. Anh Tom nói nhà mình sắp tới một nơi thật vui và rất đẹp mà.


Mặt trời xuống thấp, chiếu một vầng hào quang vĩ đại trên bầu trời. Bên dưới tấm bạt, ánh sáng tối hơn, chỉ thấy thấp thoáng vài vệt sáng dài xuyên qua chiếu thành những hình tam giác phẳng ở phần cuối cùng.

Connie và Rose of Sharon dựa lưng vào cabin xe, ngọn gió nóng xuyên qua tấm lều tạt vào sau đầu hai vợ chồng. Tiếng tấm bạt vẫn phần phật bay trên đầu hai người. Hai vợ chồng nói chuyện nho nhỏ với nhau cố ý chen giữa tiếng phành phạch của tấm bạt để chẳng ai nghe được câu chuyện của họ. Khi Connie nói thì anh ghé miệng vào tai vợ mình; đến phiên Rose nói thì cũng y như vậy. Nàng nói với chồng:

-Xem chừng nhà mình không làm gì chỉ lo chạy thôi. Em mệt quá rồi.

Anh chồng quay đầu nói vào tai vợ:

-Có lẽ vào sáng mới dừng được. Thế nào em thích yên một mình hả? Lợi dụng ánh hoàng hôn anh chồng sờ soạng vào hông vợ…

-Đừng anh, anh làm em nổi điên nghe, đừng anh.

Và nàng tiếp tục quay đầu nghe chồng trả lời.

-Có thể đợi… lúc mọi người ngủ đã.

-Có thể, nhưng đợi cho đến lúc mấy người kia ngủ. Anh làm em điên mất, rồi họ cũng hết ngủ luôn thôi.

-Anh khó ngưng tay quá…

-Em biết. Em cũng thế. Thôi hãy bàn khác, chuyện khi chúng ta tới đó xem? Giờ thì anh bỏ tay ra không em nổi điên lên đây nghe.

Anh chồng chỉ dời tay đi một ít.

-Ồ. Anh sẽ đi học đêm ngay lập tức khi tới đó.

Nàng thở dài:

-Anh sẽ xin phiếu giảm giá và mua sách để học.

-Anh nghĩ chừng bao lâu?

-Bao lâu gì?

-Anh phải học mất bao lâu trước khi đi kiếm nhiều tiền và chúng ta làm được đá lạnh?

-Anh không thể nói trước được.

Giọng ông chồng ra vẻ quan trọng:

-Thật sự không thể nói ngay bây giờ. Thường thường một người cần phải học cho xong trước Giáng Sinh

-Như vậy anh phải học cho xong cách chế ra đá lạnh và vài thứ khác nữa.

Anh chàng chắt lưỡi:

-Ở đây trời nóng quá. Mà em cần đá lạnh vào mùa Giáng Sinh nà làm gì vậy?

Cô vợ cười khúc khích:

-Đúng thế, lúc nào em cũng thích làm đá lạnh. Nhưng bây giờ thì không. Anh làm em phát điên mất.


*** 


Hoàng hôn lịm tắt, nhường chỗ cho bóng tối và các vì sao trên vùng trời sa mạc bắt đầu xuất hiện trên nền trời êm dịu hơn. Những ánh sao nhấp nháy, nhọn hoắc, cùng những chớp sáng quanh chúng. Bầu trời êm dịu lại như nhung, sức nóng đã thay đổi nhanh chóng. Ban ngày khi mặt trời lên thì sức nóng gay gắt bùng phát bay lượn khắp nơi, nhưng ban đêm thì sức nóng chỉ đến từ lòng đất, nên dày đặc, nghẹt thở. Rồi đèn xe trờ tới, ánh đèn chỉ đủ chiếu sáng một đường mờ nhạt đằng trước xa lộ, cùng hai vạt nho nhỏ hai bên con đường. Thỉnh thoảng mắt người hướng theo luồng sáng nhìn xa về trước nhưng chẳng thấy con vật nào cả. Giờ đây phía sau chỉ là vùng tối đậm đặc dưới tấm bạt. Bác John và thầy đạo nằm co giữa xe, gối đầu nghỉ ngơi vào khuỷu tay mình. Họ nhìn chằm chặp vào khoảng sáng hình tam giác của tấm bạt phía sau xe. Hai người nhận ra hai thân người nhô lên của Má và Bà Nội nằm quay lưng ra ngoài. Má họa hoằn lắm mới dám nhúc nhích, bóng đen của cánh tay bà dựa ra ngoài.

Bác John bắt đầu tâm sự:

-Thầy Casy,  tôi biết thầy là một người biết nhiều…

-Biết nhiều nhưng về vấn đề gì mới được chứ?

Bác John lúng túng:

-Tôi chẳng biết nói sao nữa?

-Ồ, vậy thì chẳng có gì với ta cả.

-Tốt, thầy là một người giảng đạo.

-Nghe đây, John, ai cũng cách biệt với ta bởi nghĩ rằng ta là người nhà thuyết giáo. Nhưng không, người thuyết giáo không là gì cả, ông ta cũng là một con người mà thôi.

-Đúng, nhưng ông ta là một loại người, nếu không thế ông ta không thể nào là một người giảng đạo được. Tôi muốn hỏi thầy—vâng, thầy có nghĩ rằng một người có thể mang lại vận xui cho kẻ khác chăng?

-Ta không biết.

Thầy lập lại lần nữa:

 -Ta chẳng biết.

-Ồ, thầy thấy đó, tôi từng có vợ. Tốt, nàng là người con gái hiền lành. Có một đêm kia nàng lên cơn đau trong bụng. Nàng kêu ta ‘anh đi kêu bác sĩ mau lên’ nhưng ta lại nói, ‘Rõ khổ, do em ăn nhiều quá đó thôi’

Trong bóng tối, Bác Jonh đặt tay lên đầu gối thầy Casy và kể tiếp:

-Nàng nhìn tôi và rên rỉ suốt đêm, cho đến chiều hôm sau thì nàng mất!

Nghe ngang đây, vị thầy lẩm bẩm gì đó. Bác John tiếp tục…

-Thầy thấy đó, tôi đã giết nàng. Bởi vì vậy tôi gắng làm cho tốt nhất là đối với bầy con nhưng tôi lại thất bại, tôi lại say sưa và tệ hại nhiều hơn nữa?

-Mọi người  ai có lúc bị điên dại như thế, ta cũng vậy.

-Thầy nói đúng, nhưng thầy không tội lỗi như tôi đâu.

Tiếng vị thầy từ tốn trả lời bác John:

-Ta chắc chắn từng mắc tội, ai cũng mắc tội. Tội lỗi đó đến bất ngờ mà ông chẳng bao giờ chắc chắn rằng biết được hết. Có những loại người họ thường cho rằng mình hoàn toàn không có tội lỗi gì? Ồ, nếu ai nghĩ thế thì họ chỉ là thứ “chó đẻ” thôi. Giá ta là Chúa Trời ta sẽ đá đít bọn họ ra khỏi thiên đàng ngay! Ta không thể chấp chứa hạng người này.

Chợt Bác John nói như ân hận:

-Tôi có cảm giác tôi là người mang điều chẳng may theo với gia đình với bà con mình hôm nay. Tôi có cảm giác rằng phải tự mình trốn đi để cho người nhà tôi hôm nay được mọi sự an lành. Tôi thật áy náy trong lòng khi cứ đi theo như vầy?

Thầy Casy lập tức phản ứng ngay:

-Ta hiểu điều này—một người phải làm những gì đáng làm. Ta không thể bảo ông, không thể bảo ông điều gì. Nhưng ta không cho là cả nhà này đang gặp điều may hay xui xẻo. Có một điều trong thế gian này ta cho là chắc chắn đó là không một ai có quyền làm xáo trộn cuộc đời người khác. Người đó chỉ có quyền quyết định đời mình mà thôi. Có thể giúp người nhưng chớ bảo người ta phải làm điều này điều nọ.

Bác John thất vọng:

-Thầy vẫn không hiểu.

-Ta không hiểu?

-Thầy nghĩ đó là tội lỗi do tôi để vợ tôi chết như vầy?

-Ồ, có người rằng cho do đó chỉ là điều sai lầm, nhưng nếu ông cho là Tội Lỗi thì đó là Tội Lỗi. Ngay từ lúc đầu người ta ai cũng có tội rồi.

-Thôi hãy bỏ qua chuyện này đi.

Người bác trở người, hai đầu gối cong lên tiếp tục ngủ lại.


*** 


Chiếc xe tiếp tục chạy nhiều giờ trên mặt đường nóng bỏng. Ruthie và Winfield đã ngủ. Connie kéo chiếc mền trong đống đồ che cho mình và vợ. Dù nóng nhưng hai vợ chồng vẫn tiếp tục nín thở ‘lục đục’ với nhau. Một lúc sau Connie phải bỏ mền đi,  làn gió nóng bên ngoài thổi qua nhưng vẫn mát cho hai tấm thân ướt át mồ hôi của hai người.

Phía sau chiếc xe, Ma nằm trên tấm nệm cạnh Bà Nội. Trong đêm mắt không thấy gì nhưng bà vẫn cảm nhận được một tấm thân bên cạnh đang phấn đấu, và trái tim đang cố gắng để sinh tồn; một hơi thở nghe như thổn thức bên tai. Má cứ tự nhắc với mình:

-Tốt lắm, vậy là tốt lắm

Giọng Má khàn khàn:

-Nội biết cả nhà chúng ta cần phải vượt sa mạc, Nội biết mà…

Bác John nghe tiếng vội hỏi:

-Có chuyện gì vậy?

Một thoáng sau có tiếng Má trả lời:

-Tốt rồi, có thể khỏi canh Nội, tôi cũng cần ngủ một ít

Sau một lúc đợi bà ngủ yên, Má mới chịu nằm im cạnh bà.


'
sắp tới trạm kiểm soát qua bang California


Những giờ trong đêm tiếp tục qua đi, chiếc xe tiếp tục lầm lũi chạy trong màn đêm đen nghịt. Thỉnh thoảng mới có vài chiếc xe khác chạy qua mặt họ, cùng chạy về hướng tây. Thỉnh thoảng có vài chiếc xe tải thật lớn chạy ngược chiều, qua mặt họ chạy rầm rập về hướng đông. Vài ánh sao từ từ chìm xuống tận chân trời hướng tây. Gần đúng nửa đêm, chiếc xe sắp tới trạm Kiểm Soát Nông Nghiệp của Daggett. Con đường giờ đây tràn ngập ánh đèn. Có một bảng đề hàng chữ lớn được chiếu sáng vào đêm:

LÁI THEO BÊN PHẢI VÀ DỪNG LẠI

Vài nhân viên lui tới trong văn phòng làm việc, họ bước ra hàng hiên đứng đợi sẵn khi Tom cho xe dừng lại.

Một nhân viên kéo bảng số xuống để mở nắp mui xe lên. Tom liền hỏi:

-Đây là trạm gì đây ông?

-Trạm kiểm soát nông nghiệp. Chúng tôi muốn kiểm tra đồ đạc các người. Có đem theo cây cỏ hạt giống gì không?

-Không.

Má nặng nhọc trèo xuống. Gương mặt bà nặng nề, đôi mắt mệt mõi bơ phờ.

-Thưa ông hãy xem, chúng tôi có một bà già đang bệnh cần đi gấp để tìm vị bác sĩ chúng tôi không thể nán lâu được?

Giọng bà tuồng như bắt đầu giận dữ, sắp đốp chát đến nơi:

-       Các ông không thể bắt chúng tôi chờ lâu được.

-       Gì? Ồ nhưng chúng tôi phải kiểm tra các người?

Má kêu lên:

-Tôi thề chẳng mang thứ gì cả. Tôi thề đó. Bà chúng tôi nặng quá rồi!

-Bà xem chừng mất bình tĩnh quá rồi? Người nhân viên có vẻ e sợ.

Má thụt lùi vào sau xe, dỡ phăng tấm chắn bằng cả sức mình bà nói lớn:

-Hãy nhìn đây!

Nhân viên chiếu đèn rồi nhìn thấy tận mắt một khuôn mặt già nua teo tóp:

-Lạy Chúa, bà ấy nói thật. Bà đã thề không có mang hạt giống hay giống cây, rau, bắp cùng cam phải không?

-Không, không có. Tôi xin thế!

-Thôi hãy đi đi. Các người tới Barston sẽ có bác sĩ. Cách đây tám dặm thôi, đi mau lên.

Tom leo lên xe lái đi ngay.

Người kiểm soát quay sang đồng nghiệp:

-Ta không nỡ lòng giữ họ lâu được.

-Có thể trò bịp đó thôi?

-Ôi lạy Jesus, không thể vậy được. Ông nên nhìn vào mặt bà đó, không bịp bợm gì đâu.


***


Tom tăng thêm tốc độ cho xe mau tới thị trấn nhỏ Barstow và dừng lại. Anh bước ra chạy vòng lui sau xe:

-Bà nặng lắm không?

Má thò đầu ra:

-Không sao cả. Do má không muốn mất thì đằng chỗ kiểm soát do sợ không còn thì giờ vượt qua sa mạc đó con.

-Tốt, nhưng  Nội sao rồi?

-Bà cũng khỏe…à cũng được thôi. Hãy lái tiếp đi, chúng ta cần vượt đêm nay.

Tom lắc đầu bước lui lại. Chợt anh bảo Al:

-Al, anh tới đổ xăng xong, em lái phụ anh nha?

Anh nói xong, cho xe tới trạm xăng đêm đổ đầy bình xăng và két nước, cùng dầu hộp số. Al xê qua ngồi giữ tay lái, Tom ngồi ngoài cùng cho Pa ngồi giữa. Chiếc xe lầm lũi đi xuyên đêm, dãy đồi thấp phía Barstow nằm lại phía sau họ.

Tom lo lắng:

-Con không biết có chuyện gì trong Má không? Má trở nên bực tức cáu kỉnh và nóng nảy bất thường lắm. Đúng ra cũng không nên ngồi lâu trên đống đồ như thế? Lúc thì Má nói Nội đau dữ lắm lúc thì Má nói Nội khỏe rồi. Má trở chứng gì rồi. Có thể chuyến đi này làm Má quẫn trí cũng nên?

Pa giải thích:

-Má con cứ hành động y như còn con gái. Có lúc Má con rất dữ. Bà chẳng sợ cái gì cả. Ba cho rằng tất cả các con đều cùng nhau một lần can ngăn Má con mới nỗi. Ba từng nói với con ba không muốn mình làm người can ngăn má con nữa.

-Con chẳng hiểu có tâm trạng gì trong má không, có thể má con quá mệt mõi mới sinh ra vậy.

Al chen vào:

-Em đang lái chiếc xe ‘gà tàng’ này đây, đừng để em nghe chuyện bực mình như thế nữa!

-Tốt thôi, muốn thế hãy gắng cho mau để đi kiếm cái nghề hái trái thế là chúng ta thoát không còn rắc rối chút nào với chiếc xe này.

                                                  thành phố Barstow  1939

Trời nóng nực nhưng mọi người phải đi một cách nhàm chán như thế suốt đêm.  Vài con thỏ đất đóng đèn do chiếc xe dọi tới một hồi rồi vội nhảy biến đi. Ánh bình minh bắt đầu hé lên phía sau họ, trong lúc ánh sáng của thị trấn Mojave còn hắt lên trời đằng trước. Ánh bình minh lên cao dần soi rõ rặng núi phía tây trước mắt họ. Tới Mojave họ đổ thêm nước và dầu, xe tiếp tục bò lên dãy núi, lúc này ánh sáng bình minh đã lên lan tới họ.

Tom kêu to:

-Lạy Jesus, chúng ta qua rồi. Al, Nhờ Ơn Chúa! Chúng ta qua sa mạc rồi!

Al thố lộ:

-Em hồi hộp và lo lắng hết sức.

-Muốn anh thay lái chưa?

-Chưa anh, chút nữa.




Xe họ lái xuyên qua Tehachapi trong buổi sáng, mặt trời bắt đầu lên cao phía lưng họ, thình lình một thung lũng rộng lớn xuất hiện trước tầm mắt mọi người. Al gài thắng và dừng xe giữa đường, anh ta buộc miệng:

-Lạy Chúa, nhìn kìa!

Không biết bao nhiêu vườn nho, vườn cây ăn trái trải dài khắp một thung lũng bằng phẳng cùng rộng bao la. Một màu xanh đẹp mắt, vô số hàng cây trồng thành hàng thẳng tắp, thấp thoáng những mái nông trang nhô lên.

Pa trầm trồ:

-Tạ Ơn Đức Chúa Toàn Năng!

Vài thành phố xa xa, ẩn hiện vài thị trấn nho nhỏ sau những vườn cây, bao la bát ngát trải dài dưới ánh mặt trời, cả một thung lũng vàng xuất hiện dưới tầm mắt của người mới tới. Người ta bóp còi sau họ. Al lo cho xe tấp vào bên đường, xong đậu lại:

-Con muốn ngắm cho thỏa cảnh thung lũng này trước đã.

Những đồng lúa mỳ vàng rộ lên dưới ánh mai, những hàng liễu trải dài, những hàng bạch đàn ngay hàng thẳng lối.

Pa thở ra:

-Ta chưa bao giờ mục kích quang cảnh như vậy.
Những cây đào, nhiều bụi hồ đào, và nhiều rừng cam điệp với nhau thành một màu xanh lục đậm. Những mái nhà màu đỏ lấp ló giữa những hàng cây, cùng nhà kho –những nhà kho sung túc trong đó. Al bước ra duỗi chân cho khỏi mỏi. Chợt cậu ta lên tiếng gọi:

-Má ơi, lại ngắm này. Chúng ta tới rồi!

Ruthie và Windfield lo nhảy xuống trước, xong đứng yên im lặng sửng sốt chúng bối rối trước quang cảnh của một thung lũng vĩ đại. Càng về xa cảnh càng nhạt nhòa, lan tỏa bởi sương mù, mặt đất càng xa trông càng dịu dàng hơn. Có cái cối xay gió xa xa lấp loáng dưới ánh sáng mặt trời, mấy cánh quạt gió lấp lánh ẩn hiện chẳng khác gì tín hiệu thông tin bằng ánh sáng nào đó ở phía xa xa.  Ruthie và Winfield vẫn đứng yên nhìn. Ruthie chợt thì thào:

-       Tới California rồi!

Winfield nhúc nhích môi, âm thầm sửa soạn nói ra một thanh âm nào đó. Chợt cậu bé la to:

-Trái cây tha hồ  ở đó!

Thầy Casy, Bác John, Connie cùng Rose of Sharon giờ bắt đầu leo khỏi xe. Họ đứng lặng yên. Rose of Sharon, tay nàng lo vuốt tóc lui lại phía sau, mắt ngắm quang cảnh thung lũng, bàn tay nàng từ từ buông xuống cạnh hông.

Bỗng Tom kêu to:

-Má đâu rồi má ơi? Con muốn Má ra ngắm cảnh này nè! Nhìn này Má, lại đây.

Má chậm chạp leo xuống, người cứng ngắc, chợt buông người dựa vào thành xe. Tom thoáng nhìn thấy:

-Ôi lạy Chúa, Má sao rồi? Má bệnh hả?

Mặt Má cứng đờ và trắng bệch, đôi mắt như chìm sâu vào đầu, mí mắt đỏ ửng, mệt mỏi. Chân tuy chạm đất nhưng tay Má phải níu vào thành xe mới đứng được.

Má thều thào:

-Con nói chúng ta qua sa mạc rồi ư?

Tom háo hức chỉ về hướng thung lũng:

-Má nhìn kìa!

Má xoa đầu nhìn, miệng hơi hé ra. Ngón tay Má nhẹ lần lên cuống họng, bấu một ít da vặn nhẹ:

-Cám ơn Chúa! Vậy là nhà ta tới rồi.

Má cong đầu gối lại, ngồi xuống bàn đạp chiếc xe.

-Má bệnh hả Má?

-Không, Má chỉ mệt.

-Có thể Má không ngủ chút nào cũng nên?

-Không phải thế đâu con.

-Bà Nội có tệ lắm không?

Má chỉ nhìn xuống đôi bàn tay nắm chặt như những gì thân mến nhất trong đùi mình:

-Má vừa mong có thể đợi chờ và không nói cho cả nhà cho đến giây phút này đây. Má vừa mong tất cả đều qua trót lọt êm xuôi cho đến giây phút này đây…

Pa nóng ruột:

-Nhưng mà Bà Nội có mệt lắm không?

Má ngước nhìn lên, nhưng lại hướng về hướng thung lũng:

-Bà Nội Qua Đời rồi!

Cả nhà đồng loạt nhìn sửng vào Má, Pa hỏi lớn:

-Khi nào?

-Trước lúc họ dừng xe chúng ta lại để kiểm tra, tức là đêm qua.

-Sao bà không muốn cho cả nhà tới nhìn bà lần cuối?

-Tôi sợ cả nhà do  Bà Qua Đời mà không còn vượt kịp qua sa mạc. Tôi nói thật với Bà rằng nhà mình đã tận lực chẳng còn cứu Bà được nữa. Gia đình phải VƯỢT cho được sa mạc. Tôi đã nói với với Nội trong giây phút Bà hấp hối sau cùng. Chúng ta không thể dừng giữa sa mạc; còn có tụi nhỏ nữa—Rosasharn sắp sinh em bé. Tôi đã nói hết với Nội.

Má úp hai bàn tay lên mặt một lát rồi tiếp:

-       Bà phải tới đây và an táng tại một nơi xanh tốt…tiếng Má dịu dàng trở lại…một nơi có cây cối và xinh đẹp. Bà phải đến cho được California như lòng bà mong đợi.

Cả nhà đứng yên nhìn Má cùng kinh hãi sức chịu đựng cùng tinh thần mạnh mẽ của Má.

Tom buộc miệng:

-Lạy Chúa! Má chịu đựng nằm yên bên Bà suốt đêm trường như thế đó ư?

Tiếng Má nghe khổ sở:

-Gia đình ta phải VƯỢT sa mạc con à.

Tom tiến gần đặt tay lên vai Má. Nhưng Má hất đi:

-Đừng chạm vào Má,  Má sẽ lấy lại tinh thần nếu con không đụng vào Má. Hãy để Má yên như vậy.

Pa giờ lên tiếng hối thúc:

-Chúng ta phải đi ngay bây giờ, phải đổ đèo gấp.

Má nhìn lên người chồng:

-Có thể cho tôi ngồi trước được không? Tôi không thể về ngồi chỗ cũ được nữa, tôi có mệt mõi, quá suy nhược trong người rồi?

Họ trèo trở lại trên đống đồ nhưng tránh một cuộn tròn dài đang bó lại bằng tấm vải trải giường. Họ về lại vị trí trên xe nhưng cố tránh không dám nhìn cái bó vải kia: nơi cái phần nhô lên đó có thể là cái mũi  hay cái phần nhô ra của cái cằm của Bà. Họ đều lãng mắt nhìn nơi khác, do họ không thể nào nhìn được. Ruthie và Winfield, ôm lấy nhau đằng một góc xe tránh xa cái xác của Bà Nội chừng nào hay chừng đó, cứ nhìn chằm chặp vào cái bó vải kia. Tiếng Ruthie thì thào:

-Nội nằm kia, nội chết rồi!

Winfield gật đầu một cách cứng rắn:

-Nội không còn thở nữa chút nào. Chắc chắn là nội chết thật rồi.

Rose of Sharon thì thầm với Connie:

-Giờ Bà ra đi chính là lúc chúng ta đang làm …chuyện ấy đó.

-Sao chúng ta biết chắc như thế được?

Giọng anh chàng như chừng an ủi vợ mình.

Al bò lên đống đồ do nhường chỗ cho mẹ mình. Anh chàng đã bớt vênh váo đi do có phần nào ân hận.  Anh trườn tới cạnh thầy Casy và Bác John:

-Ồ, Bà quá già, đã đến lúc bà phải đi thôi. Mọi người ai cũng phải ra đi vậy cả.

Thầy Casy và Bác John đều nhìn Al với ánh mắt vô cảm, một cách nhìn áng chừng như cậu ta đang nói chuyện một cách vô duyên trơ trẻn lạ đời.

Vị Thầy hỏi gặn, mắt nhìn nơi khác:

-Ồ, phải vậy không?

Vị thầy cặn vặn hỏi Al nhưng mắt hướng đi nơi khác khiến Al. trơ trẻn và bối rối.

Thầy đạo vô cùng lạ lùng và thán phục:

-Suốt một đêm dài nhưng bà Má vẫn kiên gan chịu đựng một mình như vậy? Bác John ta chưa thấy một người đàn bà nào trên đời này lại có một trái tim can trường vĩ đại đến thế? Sự vĩ đại đó đã đe nạt ta, khiến cho ta phải sợ hãi hay ghen tị là đằng khác.

 Bác John  thắc mắc:

-Chuyện vừa qua có phải là tội lỗi không thầy? Có phần nào trong đó thầy có thể cho là một tội lỗi không thưa thầy?

-Tôi chưa bao giờ làm ra chuyện gì mà từ đó gọi là một phần của tội lỗi cả.

Nói vậy nhưng mắt bác lại hướng về cái bó đang quấn người bên trong.

Phần Tom, Má và Pa ngồi ở băng ghế trước. Tom cho xe lăn bánh và bắt đầu vô số mạnh. Chiếc xe tải nặng nề ì ạch di chuyển xuống đèo; tiếng máy nghe lạch cạch và lộp bộp trên đoạn đổ dốc. Mặt trời bây giờ nằm hướng sau lưng họ. Một thung lũng  màu vàng và xanh lục dần dần hiện rõ trước tầm mắt. Má nhè nhẽ lắc đầu bên này sang bên kia:

-Thật tuyệt đẹp, Má từng ước ao ông và bà  đều tới được đây và thấy được nơi này.

Pa cũng lên tiếng theo:

-Ta cũng thế.

Tom vừa lái vừa vỗ nhẹ tay lái:

-Tội cho ông và bà quá già yếu. Tuy nhiên ông Nội lúc còn trẻ đã từng thấy cảnh đẹp thảo nguyên tại các bộ lạc Injuns rồi còn Bà Nội thời xưa ngôi nhà đầu tiên bà từng ở một vùng như hôm nay. Chỉ mừng cho lớp trẻ như Ruthie và Winfield lần đầu tiên được thấy nơi này.

Pa tán thành cùng khen con trai:

-Hôm nay Tommy nói chuyện hay quá, giống y là một người đã trưởng thành. Chuyện còn hay chẳng khác gì thầy giảng đạo không bằng.

Phần Má cười buồn:

-Tommy đã lớn rồi..lớn đến nỗi giờ Má không còn ôm hôm con như xưa nữa.

Chiếc xe lẹt đẹt đổ đèo, con đường dốc uốn quanh co qua lại khiến khung cảnh thung lũng thỉnh thoảng bị khuất trong tầm mắt mọi người, phải cố gắng nhìn mới bắt gặp lại. Mọi người bắt đầu cảm nhận hơi nóng mang theo mùi lá cây từ thung lũng bắt đầu hắt vào họ; xen vào đó còn có mùi cây sô và cây hắc ín. Dọc con đường mọi người còn nghe tiếng dế kêu. Một con rắn rung chuông bò ngang đường bị xe Tom cán ngang lưng để lại một đống vặn vẹo phía sau.

Tom nói:

-Con nghĩ chúng ta phải tới gặp nhân viên thẩm tra để báo cáo với họ. Chúng ta phải an táng đàng hoàng cho bà Nội. Con bao nhiêu tiền hả Pa?

-Khoảng Bốn Mươi con ạ.

Tom cười:

-Lạy Jesus, chúng ta bắt đầu sạch túi rồi đây! Chắc chắn chúng ta tới đây là sạch sẽ không còn mang theo gì được cả.

Anh cười trong thoáng giây, xong gương mặt nhanh chóng trở về vẻ nghiêm nghị. Kéo phần trước mũ thấp che bớt ánh nắng, Joad tiếp tục cho xe lăn bánh đổ đèo, đi vào vùng thung lũng vĩ đại dưới xa kia./.

 

HẾT

dịch by ĐHL  24/10/2021

The Grapes of Wrath (Chapter 18)

*ĐHL  giữ bản quyền

No comments:

Post a Comment