Nhân Đọc hai bài của TS
Nguyễn Hữu Liêm về Triết Gia Friedrich Nietzsche
Tìm hiểu: Quan Niệm
"Amor Fati"
Nguyễn Châu
Trong bài viết nhan
đề Cái Âm Ðiệu Tủi Thân, Bi Ðát đăng trên báo Văn số 80, tháng 8-2003,
(talawas, 03.09.2003) Nguyễn Hữu Liêm đã bàn về tương quan giữa âm nhạc và sự
mất nước của nhà Nguyễn, của Việt Nam Cộng Hòa...qua giọng hát của một số nữ ca
sĩ như Khánh Hà, Khánh Ly, Ý Lan. Những lý luận lẩm cẩm, sai lầm về âm nhạc, về
lịch sử và tương lai dân tộc... mà Nguyễn Hữu Liêm vấp phải, đã được nhiều
người vạch ra và điều chỉnh. Nay còn lại vấn đề triết học, tưởng cũng cần nói
thêm, vì, được biết, Nguyễn Hữu Liêm, ngoài nghề Luật sư, còn làm thầy dạy
triết học ở San José City College. Việc chẳng đặng đừng bởi "làm thầy
thuốc mà sai chỉ hại chết một người, làm chính trị mà sai hại cả một nước, làm
văn hóa mà sai thì hại nhiều thế hệ".
Cớ sự là sau khi lập luận một cách thiếu căn cứ để chứng minh rằng "Cái
thối nát của con người khởi đi từ sư thối nát của âm nhạc. Âm thanh là logos
của tâm thức..." Nguyễn Hữu Liêm dẫn chứng triết gia Nietzsche để hỗ trợ
cho lập luận của mình. Ông Liêm viết: "Nietzsche trong cuốn The
Will to Power có nói tới cái tâm thức amor fati - cái bệnh tủi thân,
cái lòng yêu số phận bi đát của mình. Cái bệnh amor fati của dân Việt khởi đi
từ truyện Kiều và kéo dài cho đến ngày nay. Từ Kiều qua nhạc Chàm, qua nhạc
Huế, qua vọng cổ, qua nhạc bolero đã làm cho miền Nam ngồi xuống vỉa hè, che
mặt và lau nước mắt..."
Đó là lập luận và kiến
thức cùa Nguyễn Hữu Liêm cách nay 19 năm, vào năm 2003. Mới đây, Nguyễn Hữu
Liêm lại dở "bài bản và luận điệu cũ" để nói về Văn Học Việt Nam,
đăng trên BBC tiếng Việt (duới tiêu đề "Thử Nhìn vào Khủng Hoảng Văn Học Việt
Nam qua Kiều và Nietzsche" ghi là TS Nguyễn Hữu Kiêm.
Sau khi phê phán những
người Việt viết văn và làm thơ một cách thậm tệ, TS Nguyễn Hữu Liêm kết luận:
"Cái yếu của văn
chương Việt Nam là nhiều chữ quá mà không nói lên được điều gì. Văn chương -
qua dạng truyện ngắn thuần mô tả - làm cho người đọc bị kiệt sức. Một múi chanh
của sự thể nhân sinh - phần lớn là số vốn cuộc đời bản thân - khi vào trong tay
của nhà văn Việt thì bị vắt đến nát nhừ nhằm rút ra thêm được chút tàn lực chất
chua, chất chát.
Như những tập tự truyện gần giống nhau và đồng bản chất kể lễ,
nhà văn Việt nói tới, nói lui thì cũng chỉ một âm điệu đã nhàm - cái âm điệu bi
đát, ai oán, đầy tiêu cực và thiếu tinh thần. Cuối cùng họ chỉ lặp lại chính
mình. Từ đó, các hội nhà văn, nhà thơ trở thành những đoàn thể cho văn thi sĩ
Việt định danh, tùy thuộc ngân sách nhà nước, là những "echo chamber"
cho những bất mãn chung chung, vang vọng âm ngữ bầy đàn vốn đã kéo dài trên thế
kỷ qua."
Từ đó, hầu hết văn
chương tiếng Việt - và sau này di cư qua Mỹ, Pháp, văn tiếng Anh, Pháp bởi
người gốc Việt - phần lớn vẫn chỉ là những chùm cước chú cho Truyện Kiều. Từ
trong quặng mỏ chứa thuần các lớp thân phận, ta cứ thấy hoài một chuyện - những
biến hóa chữ nghĩa được mãi khai thác từ cái cuốc mòn văn chương nhà ta. Văn
chương Việt - Việt hay Anh, Pháp ngữ - chỉ là những tuyển tập thú tội.
Ở đó, bi đát không
vươn lên được tầm bi tráng; số phận cá nhân chỉ là một lát mỏng cắt ngang khúc
cây từ hoàn cảnh tập thể dân tộc trong sự trống vắng về ý chí tác hành bằng ý
thức sử tính và thời đại.
Đọc văn Việt thì như
là nghe vọng cổ, hay nhạc bolero - cũng như cha ông ta đọc Kiều. Nó chỉ làm cho
ý chí hành động bị tê liệt. Nói hơi đại ngôn một tí rằng, thể loại văn chương,
thi phú nầy chính là nguồn gốc sâu xa cho hầu hết những thảm kịch lịch sử Việt
Nam cho đến hôm nay - một lịch sử chỉ hoàn toàn chứa đựng những năng động thuần
chất tình cờ, ngẫu nhiên - không mang một tinh yếu ý chí cá thể.
Trong khi thi ca Tây
phương biến bi kịch cá nhân thành là một nguồn kích khởi ý chí hành động; thì
ngược lại, văn thơ Việt nhấn chìm người đọc vào số phận bi đát của nhân vật.
Càng đọc thi ca Việt ta càng bị đắm mình vào cái đập nước ngôn từ do chính
chúng ta tự kiến lập lên".
Rồi Nguyễn Hữu Liêm
hô hào"
"Hãy vịn vào Nietzsche mà đứng dậy"
...Chính vì thâm
nhiễm Kiều với chủ nghĩa số phận bi thương, thụ động mà Việt Nam phải bị Thực
dân Pháp đem cho một linh hồn mới. Từ bi kịch đô hộ đó, từ khát vọng vương lên
làm lịch sử, ta cầu cứu đến Marx với lời sấm ý chí, "Ta sẽ dẫm lên đống
gạch vụn từ quá khứ để tái tạo lại lịch sử như là một Thượng đế mới."
Nhưng, tai họa không thể rời nàng Kiều.
Nhắm mắt gán Marx
vào hồn Kiều đã trở nên một thang thuốc tự vận. Cuối cùng, khi đã hết thực dân
và đế quốc, văn chương Việt lại lần nữa vực linh hồn Kiều sống lại trên nghĩa
trang Marx." (ngưng trích)
Qua những lập luận và tuyên phán của Nguyễn Hữu Liêm trong hai bài viết cách
nhau 18 năm, người ta thấy Nguyễn Hữu Liêm đã lặp lại sai lầm quá khứ khi dùng
bài bản của để nói về Văn Học.
Riêng tôi thì nhận thấy
rõ rằng quả thật Nguyễn Hữu Liêm chưa hiểu được quan điểm và triết lý của
Friedrich Nietzsche, một triết gia Ðức cuối thế kỷ 19 (1844-1900). Đây là một
triết gia đã gây ảnh hưởng rất lớn lên tư tưởng của cả Âu châu, đã chuyển hóa
cả một thời đại khi tuyên bố "Thượng Đế đã chết"...
Về truyện Kiều, tôi thấy
rõ TS Nguyễn Hữu Liêm thực ra chỉ biết loáng thoáng chứ chưa đọc kỹ để có thể
thấu hiểu tư tưởng "Nhân định thắng Thiên" trong truyện Kiều.
Thật vậy, khi Nietzsche
tuyên bố đã ám sát Thượng Đế thì Nguyễn Du tuyên bố "Nhân định thắng
thiên" cả hai đều có ý hướng loại bỏ ảnh hưởng của Thượng Đế khỏi thân
phận con người...
Trong bài nói về khủng
hoảng Văn Học Việt Nam, Nguyễn Hữu Liêm viết:
"Từ "Phận đành chi dám kêu oan"(Kiều) đến "Mẹ
khỉ, cái thằng đểu này là điềm gở nhất của số phận mình" (Tướng hồi
hưu, Nguyễn Huy Thiệp) ta thấy rằng: Cái ác, cái xấu tất cả đều ở bên ngoài ta,
là từ xã hội, nơi tha nhân. Khi sự yếu đuối ý chí được lấy làm biện minh cho thụ
động trong oán hờn liệt kháng thì thơ văn Việt chính là một lời nguyền tự đến
- a self-fulfilling prophecy."
Câu "Phận đành chi
dám kêu oan" ghi là Kiều, nhưng trong truyện Kiều không hề có câu này! Về
các câu bắt đầu bằng chữ "Phận" có tất cả 16 câu (Phận hèn, phận bạc,
phận mỏng, phận bèo...) không có câu mà Nguyễn Hữu Liêm trích dẫn! Đây là một
bằng chứng cho thấy trình độ hiểu về Kiều của TS Nguyễn Hữu Liêm.
Ảnh hưởng của Nietzsche đối với tư tưởng thế kỷ 20
Nietzsche đã viết rằng có một số người được sinh ra sau khi đã qua đời [born
posthumously], đây đích thị là trường hợp của bản thân ông ta. Nietzsche mất
năm 1900. Sau khi ông qua đời, các triết gia Ðức như Max Scheler, Karl Jaspers
và Martin Heidegger đã dốc sức vào món nợ của Nietzsche, cùng với các triết gia
Pháp như Albert Camus, Jacques Derrida và Michel Foucault, trong nỗ lực cứu con
người ra khỏi tình cảnh mà triết lý Hiện sinh gọi là "bị ném vào thế
giới" nghĩa là bị bỏ rơi mặc cho định mệnh hành hạ và không chế. Triết lý
Hiện sinh, một trào lưu triết học và phê bình văn học đã khởi nguyên từ tư
tưởng và triết thuyết của Nietzsche. Do đó, lịch sử của thế kỷ 20 về triết học,
thần học và tâm lý học sẽ không thể hiểu được nếu không tìm về Nietzsche.
Các nhà thần học như Paul Tillich và Lev Shestov thừa nhận đã được lời tuyên bố
"Thượng đế đã chết" của Nietzsche soi đường. Martin Buber, một nhà tư
tưởng Do thái giáo lớn nhất thế kỷ 20, đã xem triết học Nietzsche là một trong
ba ảnh hưởng quan trọng nhất trong cuộc đời ông ta. Martin Buber đã dịch phần
đầu cuốn Also sprach Zarathustra (Zarathustra đã nói như thế)
ra tiếng Ba-lan. Các nhà tâm lý học như Alfred Adler, Carl Jung cũng đã chịuảnh
hưởng Nietzsche rất sâu xa. Sigmund Freud, nhà phân tâm học nổi tiếng cũng đã
nói về Nietzsche rằng, qua triết học Nietzsche, ông ta đã hiểu sâu được chính
mình hơn. Các nhà viết tiểu thuyết như Thomas Mann, Hermann Hesse, André
Malraux, André Gide và John Garner cũng nhận cảm hứng từ Nietzsche và đã viết
về Nietzsche. Các thi sĩ và các nhà soạn kịch như George Bernard Shaw, Rainer
Maria Rilke, Stefan George và William Butler Yeats cũng thế. Như vậy Nietzsche
là một trong những triết gia có ảnh hưởng lớn nhất thời đại. Sự kiện này không
những chỉ bắt nguồn từ tư tưởng triết học của Nietzsche mà còn vì ông ta là một
nhà văn lỗi lạc của ngôn ngữ Ðức quốc.
Triết lý của Nietzsche được mệnh danh là triết học về Siêu Nhân (Übermensch,
thường được dịch là Superman). Khái niệm "Siêu Nhân" của
Nietzsche được hiểu là một con người có khả năng vượt lên trên mọi giới hạn,
mọi ràng buộc của đạo lý thường tình đã có từ bao nhiêu đời và do các tôn giáo
đặt định ra. Nietzsche xem mọi lệ luật giáo điều đều là "nô lệ tinh
thần" đặt trên căn bản ham muốn và đố kỵ, đó là thứ luân lý của những kẻ
hèn yếu, đố kỵ và sợ hãi sức mạnh, sợ cả sự tự hào và tự quyết của bản thân.
Theo Nietzsche, những thứ đạo lý thường tình mà thế gian đang theo chỉ ngấm
ngầm làm suy yếu nghị lực nhân bản là sức mạnh để đưa con người đến chỗ vĩ đại
nhất và hoàn thành những mục đích cao cả nhất. Chính những thứ thường tình này
đã sinh ra bi kịch của nhân loại (Die Geburt der Tragödie, 1872).
Nietzsche tin rằng thời đại của các tôn giáo cổ truyền đã qua rồi (Götzendämmerung -Hoàng
hôn của Thần tượng, 1889)
Câu nói thời danh gây chấn động của Nietzsche là "Thượng đế đã chết"
trong tác phẩm nhan đề Also sprach Zarathustra (Ainsi parla
Zarathustra - Thus spoke Zarathustra). Vì "Thượng đế đã chết" cho nên
cần phải đặt lại vấn đề đối với tất cả các giá trị, tái thẩm định các giá trị
để đi đến một lý tưởng mới: Übermensch. Nietzsche ca tụng Der
Wille zur Macht (Ý chí đưa đến Sức mạnh, Walter Kaufmann dịch ra tiếng
Mỹ là The Will to Power).
Der Wille zur Macht là cuốn sách do người chị của Nietzsche biên
soạn dựa theo các ghi chép và bản thảo mà ông ta để lại sau khi chết, xuất bản
năm 1901. Ðây là tác phẩm mà Nguyễn Hữu Liêm đã chỉ biết bản dịch tiếng Anh,
nhưng lại đưa ra để dẫn chứng và gán cho Nietzsche những điều mà sách này không
nói tới.
Thật vậy, Nguyễn Hữu Liêm viết: "Nietzsche trong cuốn The Will to
Power có nói tới cái tâm thức amor fati - cái bệnh tủi thân, cái lòng
yêu số phận bi đát của mình. Cái bệnh amor fati của dân Việt khởi đi từ truyện
Kiều và kéo dài cho đến ngày nay..."
- Trước hết, điều cần phải nói là
Nietzsche không có tác phẩm nào mang tên là The Will to Power mà
chỉ có cuốn Der Wille zur Macht dịch ra Việt ngữ là Ý
chí đưa đến Sức mạnh hay Quyền Lực. Nguyễn Hữu Liêm dùng The
Will to Power mà không nói là bản dịch Anh ngữ cũng không chú
thêm tiếng Việt cho người đọc, như vậy là không đúng phép tắc.
- Thứ hai, trong Der
Wille zur Macht của Nietzsche không đề cập đến cái mà Nguyễn Hữu
Liêm gọi là "tâm thức amor fati". Và tệ hại hơn nữa, là Nguyễn
Hữu Liêm đã gán cho chủ trương Amor Fati của Nietzsche một nội dung hoàn
toàn trái ngược cả ý nghĩa lẫn chủ trương.
- Thứ ba, nội dung của Der
Wille zur Macht chỉ có phần mở đầu nói về cái vĩ đại. Cái Vĩ đại
chỉ có hai thái độ hoặc là im lặng hoặc chỉ nói với tính chất vĩ đại mà
thôi. Tính chất vĩ đại theo Nietzsche, đó là sự ra ngoài quy ước đạo lý
(Zyniker / cynic) và với tính hồn nhiên. Nietzsche viết "Cái mà tôi
nói đến là lịch sử của hai thế kỷ sắp tới. Tôi mô tả những gì đang đến,
những gì không thể xảy ra một cách nào khác: đó là sự xuất hiện của chủ
nghĩa Hư vô (die Ankunft der Nihilismus). Toàn thể văn hóa Âu châu
sẽ di chuyển về nơi tan rã.
"Người đang nói ở đây cũng chẳng làm được gì hơn, ngoài việc trầm tư: như
một triết gia vốn dĩ cô đơn từ bản năng, đã tìm thấy lợi thế bằng cách đứng bên
lề và bên ngoài..."
Nietzsche đặt vấn đề: "tại sao sự xuất hiện của chủ nghĩa Hư vô lại trở
thành tất yếu? Vì những hệ thống giá trị mà chúng ta đang có từ trước đến nay
đã đưa đến những hậu quả chung cuộc; vì hư vô chủ nghĩa đại diện cho kết luận
hợp lý sau cùng của những giá trị vĩ đại và các lý tưởng - vì chúng ta phải
kinh qua hư vô chủ nghĩa trước khi chúng ta có thể tìm ra cái giá trị nào,
trong số những giá trị này, là giá trị đích thực. Ðôi khi chúng ta đòi hỏi
những giá trị mới".
Der Wille zur Macht nói về Chủ nghĩa Hư vô. Nietzsche khẳng định
không phải nỗi đau khổ xã hội (dù là tâm lý, thể lý hay trí tuệ) là nguyên ủy
tạo nên chủ nghĩa hư vô. Hư vô bắt nguồn từ sự cáo chung của Thiên chúa giáo,
vì cuộc sinh tồn của thế giới không thể giải thích theo quan điểm Thiên Chúa
giáo nữa. Sự bật ngược từ chỗ "Thượng đế là chân lý" đến niềm tin cực
đoan "Tất cả đều giả tướng", "Tất cả đều vô nghĩa". Như
vậy, trong Der Wille zur Macht không có "cái bệnh tủi
thân amor fati" mà Nguyễn Hữu Liêm đã đưa ra.
Ý nghĩa đích thực của Amor Fati
Về ngôn ngữ, "amor fati" là "tình yêu dành cho số phận hay định
mệnh của mình" tiếng Anh tạm dịch là "Love of your fate". Nội
dung của thành ngữ "amor fati" không liên quan gì đến "cái bệnh
tủi thân, cái lòng yêu số phận bi đát của mình" như Nguyễn Hữu Liêm đã
hiểu. Amor Fati của Nietzsche làm tôi liên tưởng đến mấy câu thơ của Alfred de
Vigny trong bài La Mort du Loup (Cái chết của con chó sói):
Gémir, pleurer, prier, est également lâche.
Fais énergiquement ta longue et lourde tâche
Dans la voie où le sort a voulu t'appeler
Puis, après, comme moi, souffre et meurs sans parler"
(câu 13-16)
Rên rỉ, khóc than, cầu nguyện đều là hèn nhát
Hãy kiên cường làm cái nhiệm vụ lâu dài và nặng nề
Trên con đường mà số phận đã muốn gọi
Rồi, sau đó, hãy như ta, chịu đựng và ra đi không nói một lời.
Về triết học, Nietzche đã xem "amor fati" như là một "công thức
về sự vĩ đại của con người". Ông không hề nói "số phận bi đát"
như Nguyễn Hữu Liêm đã gán cho amor fati của Nietzsche [1] .
AMOR FATI! "Yêu lấy định mệnh của mình" là thái độ của Siêu Nhân chấp
nhận cuộc đời với tất cả những gì nó chứa đựng cả đau khổ lẫn hạnh phúc, hoan
lạc. Ðó là hành động ôm chặt lấy cuộc đời với tất cả đam mê của một chiến sĩ
tâm linh. Nietzsche hoàn toàn tin vào sức mạnh toàn năng và vô hạn của Lý trí
và Trí tuệ. Amor Fati không phải là lối sống thụ động đối với những hậu quả của
cuộc đời, mà chính là dấn thân vào cuộc thách đố với những gì mà đời đang đem
lại. Theo Nietzsche, khi con người "Yêu địnhmệnh của mình" thì nó
vượt thoát hết mọi ràng buộc và giới hạn của cuộc đời: Tự do của con người nằm
trong sự ưa thích cái đang hiện Hữu và cái đã hiện Hữu cùng với sự lựa chọn và
yêu quý nó như thể là không có cái gì tốt hơn để ta mong muốn. Amor Fati của
Nietzsche là nguồn cảm hứng cho một số triết gia hiện sinh Ðức như Heidegger và
Jaspers với chủ trương sống là lựa chọn giữa những khả thể hiện Hữu của cả quá
khứ, hiện tại và vị lai. Sự chọn lựa hiện sinh là vô hạn và bìnhđẳng.
Tóm lại: Nguyễn Hữu Liêm đã không hiểu được ý nghĩa của thành ngữ "amor
fati" gốc tiếng La-tinh nên đã phạm một sai lầm lớn về kiến thức. Ðây là
một sai lầm do khả năng lãnh hội yếu kém. Có lẽ vì không hiểu rõ triết lý của
Nietzsche, nên Nguyễn Hữu Liêm đem "công thức amor fati" diễn giải
thành "cái bệnh tủi thân" rồi gán cho dân tộc Việt Nam. Nguyễn Hữu
Liêm viết: "Cái bệnh amor fati của dân Việt khởi đi từ truyện Kiều và kéo
dài cho đến ngày nay..." Ở đây, Nguyễn Hữu Liêm đã bộc lộ những yếu kém về
kiến thức triết học cũng như văn học. Thật vậy, nhìn chung, đa số dân Việt
không hề có được cái "amor fati" của Nietzsche, vì nếu có được tâm
trạng này thì người Việt đã trở thành Siêu nhân, không "tủi thân",
không chỉ "ngồi xuống vỉa hè, che mặt và lau nước mắt..." như NHL mô
tả nữa. Ở đây, còn thêm một điều lố bịch nữa, đó là, Nguyễn Hữu Liêm chỉ áp
dụng cái bệnh tủi thân cho "dân Việt" miền Nam thôi: Cái bệnh amor
fati của dân Việt khởi đi từ truyện Kiều và kéo dài cho đến ngày nay. Từ Kiều
qua nhạc Chàm, qua nhạc Huế, qua vọng cổ, qua nhạc bolero đã làm cho miền Nam
ngồi xuống vỉa hè, che mặt và lau nước mắt..." Thế miền Bắc xã hội chủ
nghĩa của Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh...thuộc dân Nga và Tàu hay sao?
Về Văn Học Việt Nam
Khẳng định rằng "cái bệnh tủi thân của dân Việt khởi đi từ truyện
Kiều" chứng tỏ Nguyễn Hữu Liêm chỉ hiểu truyện Kiều ở trình độ lớp 9 mà
thôi. Nguyễn Hữu Liêm không nhìn thấy được sự phấn đấu với hoàn cảnh và sự phản
kháng định mệnh của nàng Kiều qua câu chuyện, thật đáng tiếc cho một người làm
thầy dạy Triết. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã khẳng định rằng: "Xưa
nay nhân định thắng thiên cũng nhiều", thế thì sao gọi là an phận?
Kiều đã hơn hai lần quyết chí vượt khỏi hoàn cảnh: một lần "Sẵn dao tay
áo tức thì giở ra" định tự tử khi biết mình bị lừa vào lầu xanh; lần
thứ hai, quyết định đi theo Sở Khanh để thoát cảnh giam cầm tại lầu Ngưng Bích;
lần thứ ba, đêm khuya, một mình thân gái, Kiều liều mạng "Cất mình qua
ngọn tường hoa/ Lần đường theo bóng trăng tà về tây..." Kiều leo qua
tường chạy trốn để thoát khỏi "nanh vuốt" và sự nham hiểm của Hoạn
Thư... "Thân ta, ta phải lo âu/ Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này/ Ví
chăng chắp cánh cao bay/ Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa (2015-2018)".
Cả ba lần vượt thoát đều thất bại, Kiều mới chấp nhận định mệnh một cách miễn
cưỡng: "Biết thân chạy chẳng khỏi trời/ Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày
xanh" (câu 2163-2164). Xin nêu ra một vài dẫn chứng cụ thể để Nguyễn
Hữu Liêm suy gẫm lại về những hiểu biết của mình về Truyện Kiều.
Về thái độ của người học triết
Triết học là một hành trình đi tìm chân lí cùng tột của sự vật. Người học triết
xuất hiện như một kẻ trầm tư suy nghĩ, tiếp nhận, phân tích các sự việc xảy ra
trong thời gian và không gian với một thái độ khiêm cung, từ tốn và cởi mở.
Thái độ triết học không cho phép sử dụng những thuật ngữ triết học mà không
giải thích, chẳng hạn "âm nhạc là logos của tâm thức". Viết là
viết cho người khác đọc, độc giả báo Văn không phải toàn là
sinh viên lớp triết ở San Jose City College, làm sao ai hiểu được ông Liêm muốn
nói gì? Là một người học triết và đang dạy triết (dù là giáo sư, là phụ giảng
hay trợ giáo) đều cần phải tỏ ra có tư cách một nhà giáo, nghĩa là không được
phép có thái độ trịch thượng, thiếu lễ độ, những ngôn ngữ của "phường đá
cá lăn dưa" Thế mà, trong bài Cái Âm Điệu Tủi Thân Bi Ðát Nguyễn
Hữu Liêm đã sử dụng tối đa loại ngôn ngữ "đầu đường xó chợ này" một
cách hằn học đối với đích danh các nữ ca sĩ lớn tuổi bậc chị Khánh Ly, Khánh
Hà... Xin trích dẫn một vài thí dụ về ngôn từ của Nguyễn Hữu Liêm: Nói về Khánh
Hà, NHL viết "Cái nồng độ nức nở này như là một thứ trade-mark, một gia
vị đặc thù, một thứ nước dừa ngọt ngầy ngậy mà bất cứ món ăn nào cô ca sĩ sưng
môi này cũng cứ quậy lên không cần phân biệt." Nói về Ý Lan, NHL viết:
"Cũng một bản nhạc đó, mà khi Ý Lan hát lên thì thành ra tức tưởi, bi
ai - và đặc biệt là tính đĩ. Hễ đến đoạn nào thay đổi âm khúc thì Ý Lan lắc lư
cái đầu, nức nở hóa tiếng ngâm, khàn vô cổ họng cái tiếng lớ để gia tăng cái bi
kịch của tính lẳng lơ nhưng đầy tang thương của tiếng hát". Về cộng
đồng tỵ nạn thích nghe Khánh Ly, Khánh Hà và Ý Lan hát, NHL viết: "Cái
quần chúng lau nước mắt này bị lưu đày qua đất mới và tiếp tục uống nước dừa
tang thương bằng âm nhạc."
Văn tức là người. Qua những câu văn này, người ta có thể biết được bản chất của
Nguyễn Hữu Liêm. Một người học triết mà không có thái độ triết học thì làm sao
có thế thấm nhuần triết lý để có thể truyền đạt cho kẻ khác? Nghe Nguyễn Hữu
Liêm "xoi tỳ, bới vết" của các nữ ca sĩ hải ngoại, nào là "ca sĩ
sưng môi", nào là "tính đĩ", "tính lẳng lơ"... người
ta không hiểu Nguyễn Hữu Liêm đi nghe nhạc, hay đi khảo sát đạo đức của các ca
sĩ? NHL gán cho ca sĩ trình diễn "Tính đĩ" và "Tính lẳng
lơ", sự kiện này, theo phân tâm học, thì đó là do tâm thức ẩn ức tình dục
của người xem, nên nhìn đâu cũng thấy khêu gợi ham muốn nhục dục cả. Vậy NHL
không nên vạch áo cho người xem lưng qua những lời không đẹp đối với phái nữ.
Ngoài ra, Nguyễn Hữu Liêm đã đưa Khổng Tử và Socrates để hỗ trợ cho lập luận
của ông ta về âm nhạc, nhưng Nguyễn Hữu Liêm lại không nhớ lời Khổng tử dạy về
đạo làm người. Trong sách Luận Ngữ, Khổng tử đã nói với Tử Trương
rằng: "Quân tử vô chúng quả, vô tiểu đại, vô cảm mạn: tư bất diệc thái
nhi bất kiêu hồ. Quân tử chỉnh kỳ y quan, tôn kỳ chiêm thị, nghiễm nhiên nhơn
vọng nhi úy chi: tư diệc bất oai nhi bất mãnh hồ" nghĩa là "Người
đường hoàng, đúng đắn, đối với quần chúng chẳng luận là nhiều hay ít, lớn hay
nhỏ, chẳng hề dám khinh dể ai, như vậy chẳng phải là thư thái mà chẳng cần kiêu
mạn hay sao? Người quân tử đội mũ ngay ngắn, y phục chỉnh tề, nhìn ngó một cách
tôn nghiêm, sự oai nghi nghiễm nhiên mà co, khiến người trông vào mà kính nể,
như vậy chẳng phải là uy nghiêm đằm thắm, chẳng cần phải tỏ ra hung dữ
sao?" Nếu là người có uy thế thực sự, có đầy đủ kiến thức thì cần gì phải
lớn lối, đằng đằng sát khí, trùng trùng sân mạn, lên tiếng thóa mạ "tha
nhân", dạy đời một cách thiếu lễ độ.
Ðể chấm dứt "chuyện chẳng đặng đừng" này, xin mạn phép nhắc thêm một
câu của Khổng tử về đạo làm người: "Bất tri Mạng (mệnh) vô dĩ vi quân tử
giả. Bất tri Lễ, vô dĩ lập giả. Bất tri Ngôn vô dĩ tri nhơn giả." nghĩa
là:
"Chẳng hiểu Mệnh
Trời (số phận), chẳng đáng gọi là người quân tử. Chẳng biết Lễ độ (kính trên,
nhường dưới, khiêm tốn, thật thà) thì không thể đứng ngang hàng với người được.
Chẳng biết ý nghĩa trong lời nói, thỉ chẳng thể nào hiểu được người."
Khổng tử còn đi xa hơn:
"Xảo ngôn, lệnh sắc tiễn hỷ nhân": dùng lời nói xảo quyệt, lừa mị, tô
điểm nhan sắc giả tạo, đều là xa rời đức nhân", vì về phương diện đạo lý
hai hành vi trên đều là sự lừa dối người khác.
NGUYỄN CHÂU, gs Triết Học
[1]Chú thích của talawas: Friedrich Nietzsche nói
về Amor fati trong "Der Wille zur Macht" (The Will to Power) ở câu
1041, trong "Die fröhliche Wissenschaft" (The Gay Science) ở đoạn 92
(276), và trong "Ecce Homo" ở đoạn 10.
SaigonUSA News, Số 618,
November 22, 2003
No comments:
Post a Comment