Tuesday, August 9, 2022

GS NGUYỄN CHÂU: NGUYỄN DU -VĂN TẾ THẬP LOÀI CHÚNG SINH

 


NHÂN MÙA VU LAN

                                                  ÐỌC                                  

VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH

 

của Nguyễn Du

 

NGUYỄN DU là một tác giả Việt Nam đã được thế giới biết đến từ hơn 100 năm nay qua tác phẩm thơ trường thiên, đó là ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH dân gian gọi là TRUYỆN KIỀỤ hay KIM VÂN KIỀU.

Văn chương và tư tưởng trong truyện Kiều đã được nhiều học giả tìm hiểu, phân tích... và hầu hết đều đã công nhận đây là một tác phẩm có giá trị.

 

Truyện Kiều đã trình bày một nhân sinh quan nhân bản bao gồm “thuyết định mệnh và thân phận con người”. Nhưng Nguyễn Du đã dành một phần quyết định cho con người về cuộc đời chứ không hoàn toàn phó thác cho thiên định:

 

“Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”

hoặc:

“Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”

 

Thi hào Nguyễn Du đã kết thúc truyện Kiều bằng triết lý Phật giáo “Vạn pháp duy tâm tạo” (mọi hành động và hệ quả trong cuộc đời đều do từ lòng người mà có) và tin tưởng rằng con người có thể dùng “TÂM” để chuyển hóa cuộc đời. Chính vì “Vạn pháp” do tâm sinh, cho nên con người-ở-đời phải hiểu rằng:

 

“Ðã mang lấy nghiệp vào thân

Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa”

 

Có lẽ từ quan niệm này mà Nguyễn Du đã viết nên bài “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” để chiêu hồn mười loại chúng sinh trong ngày rằm tháng bảy âm lịch, là ngày được truyền thống dân tộc Việt Nam xem như là ngày “Xá tội Vong Nhân” nghĩa là ngày mà các linh hồn của những người khi sống đã làm nên tội nên đã bị giam giữ, chịu hình phạt trong các tầng địa ngục... được ân giảm và ân xá để đi đầu thai vào cõi khác (theo giáo lý Phật).

 

“Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” còn được gọi là Văn “Chiêu hồn thập loại chúng sinh”hoặc ngắn gọn "Văn Chiêu Hồn".

Đây là một áng văn quốc âm (tức tiếng Việt) nổi tiếng về văn chương, tư tưởng và ý nghĩa, nhưng lại ít được các học giả nhắc đến, có lẽ vì cái chủ đề có vẻ thuộc về cúng tế.

Thật vậy, về văn quốc âm, tức là văn viết bằng tiếng Việt, bằng chữ nôm (tức là cách ký âm tiếng Việt bằng chữ Trung Hoa qua sự cải biến do ông Nguyễn Thuyên khởi xướng), Nguyễn Du có bốn tác phẩm được lưu truyền, đó là:

1.- Truyện Kiều

2.- Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh

3.- Văn Tế Sống Hai Cô Gái Trường Lưu

4.- Thơ Thác Lời Trai Phường Nón.

 

“CHIÊU HỒN THẬP LOẠI CHÚNG SINH” mở đầu bằng không gian và thời gian của tháng Bảy Âm lịch, đầu mùa thu Á đông, trùng với Lễ Vu Lan của Phật giáo.

 

Do đó, nhân Mùa Vu Lan, chúng tôi xin đọc lại bài văn CHIÊU HỒN THẬP LOẠI CHÚNG SINH của thi hào Nguyễn Du để cùng chia sẻ những nỗi đau thương của hàng vạn kiếp người, của những thân phận làm người thiếu may mắn trong cuộc đời mà tự ngàn xưa đã được ghi nhận là “buồn nhiều hơn vui”, là biển khổ, là bến mê...

 

Bài văn Chiêu Hồn này đã được truyền tụng trong dân gian một cách rộng khắp, có lẽ do các mùa và lễ Cúng Cô Hồn, khi làm lễ Cầu Siêu tập thể, có nơi dùng để làm bài đọc trong cuộc “cầu cơ” với một vài chế biến.

 

Bài văn có một số tên không giống nhau: một bản đề là “Bài Chiêu Hồn” (in năm 1926); một bản đề là “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” (Lê Thước, Văn Hóa Hợp Tuyển (1960 và 1963); một bản lấy tên là “Văn Chiêu Hồn” (1965); một bản là “Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh” (Ðàm Quang Thiện).

 

Chúng tôi nhận thấy nội dung của bài văn là “gọi hồn và bày tỏ sự thương xót đối với những linh hồn đau khổ trong cõi âm” do đó có thể chọn cái tên là “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” để tiện tìm hiểụ

Bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh gồm 184 câu, làm theo thể song thất lục bát. Song thất lục bát là thể thơ kết hợp nhịp nhàng giữa thất ngôn và lục bát tạo nên nhiều cung bậc trầm bổng, bi hùng, rất dễ ngâm hoặc hát...

 

1) Nguyên bản:


 

Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh

 

Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,

Toát hơi may lạnh buốt xương khô

Não người thay buổi chiều thu,

Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...

Ðường bạch dương bóng chiều man mác,

Dịp đường lê lác đác mưa sa

Lòng nào lòng chẳng thiết tha

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

Trong trường dạ tối tăm trời đất,

Có khôn thiêng phảng phất u minh...

Thương thay thập loại chúng sinh

Hồn đơn, phách chiếc, lênh đênh quê người

Hương lửa đã không nơi nương tựa

Hồn mồ côi lần lữa bấy niên...

Còn chi ai khá ai hèn

Còn chi mà nói ai hèn ai ngu!

Tiết đầu thu lập đàn giải thoát

Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi

Muôn nhờ đức Phật từ bi

Giải oan cứu khổ độ về tây phương.

 

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh

Chí những lăm cất gámh non sông

Nói chi những buổi tranh hùng

Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau!

Bỗng phút đâu mưa sa ngói lỡ

Khôn đem mình làm đứa thất phụ

Giàu sang càng nặng oán thù

Máu tươi lai láng xương khô rụng rời

 

Ðoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,

Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa

Cho hay thành bại là cơ

Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.

 

Cũng có kẻ màn lan trướng huệ

Những cậy mình cung quế Hằng Nga,

Một phen thay đổi sơn hà,

Mảnh thân chiếc lá biết là về đâủ

 

Trên lầu cao dưới dòng nườc chảy

Phận đã đành trâm gãy bình rơi

Khi sao đông đúc vui cười

Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.

 

Ðau đớn nhẽ không hương không khói

Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.

Thương thay chân yếu tay mềm

Càng năm càng héo, một đêm một dàị

 

Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,

Ngọn bút son thác sống ở tay

Kinh luân găm một túi đầy

Ðã đêm Quản Nhạc lại ngày Y Chu

 

Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,

Trăm loài ma mồ nấm chung quanh

Ngàn vàn khôn đổi được mình

Lầu ca viện hát tan tành còn đâủ

 

Kẻ thân thích vắng sau vắng trước

Biết lấy ai bát nước nén nhang?

Cô hồn thất thểu dọc ngang

Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hóa sinh?

 

Kìa những kẻ bài binh bố trận

Ðổi mình vào cướp ấn nguyên nhung

Gió mưa sấm sét đùng đùng

Phơi thây trăm họ nên công một ngườị

Khi thất thế tên rơi đạn lạc

Bãi sa trường thịt nát máu rơi

Mênh mông góc bể chân trời

Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nàỏ

Trời thăm thẳm mưa gào gió thét

Khí âm huyền mờ mịt trước sau

Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,

Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?

 

Cũng có kẻ tính đường trí phú

Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn

Ruột rà khôngkẻ chí thân

Dẫu làm nên để dành phần cho aỉ

Khi nằm xuống không người nhắn nhủ

Của phù vân dẫu có như không

Sống thời tiền chảy bạc ròng

Thác không đem được một đồng nào đị

Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm

Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm

Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm

Nén hương giọt nước biết tìm vào đâủ

 

Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy

Dẫn mình vào thành thị lân la

Mấy thu lìa cửa lìa nhà

Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.

Dọc hàng quán gặp tuần mưa nắng

Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng

Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng

Anh em thiên ha,ỳ láng giềng người dưng

Bóng phần tử xa chừng hương khúc

Bãi tha ma kẻ dọc người ngang

Cô hồn nhờ gửi tha phương

Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.

 

Cũng có kẻ vào sông ra bể,

Cánh buồm mây chạy xế gió đông

Gặp cơn giông tố giữa dòng

Ðem thân chôn rấp vào lòng kình nghệ

 

Cũng có kẻ đi về buôn bán

Ðòn gánh tre chín dạn hai vai

Gặp cơn mưa nắng giữa trời

Hồn đường phách sá lạc loài nơi naỏ

 

Cũng có kẻ mắc vào khóa lính

Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan

Nước khe cơm vắt gian nan

Dãi dầu ngìn dặm lầm than một đời

Buổi chiến trận mạng người như rác

Phận đã đành đạn lạc tên rơi

Lập lòe ngọn lửa ma trơi

Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!

 

Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp

Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa

Ngẩn ngơ khi trở về già

Ai chồng con ta,Ô biết là cậy aỉ

Sống đã chịu một đời phiền não

Thác lại nhờ hớp cháo lá đạ

Ðau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâủ

 

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất

Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi

Thương thay cũng một kiếp người

Sống nhờ hàng xư,Ô chết vùi đường quan.

 

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc

Gửi mình vào chiếu rách một manh

Nắm xương chôn rấp góc thành

Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đỉ

 

Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé

Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha

Lấy ai bồng bế xót xa

U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

 

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối

Cũng có người sẩy cối sa cây

Có người leo giếng đứt dây

Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.

Người thì mắc sơn tinh thủy quái

Người thì sa nanh sói ngà voi

Có người hay đẻ không nuôi

Có người sa sẩy có người khốn thương.

Gặp phải lúc đi đường lỡ bước

Cầu Nại Hà kẻ trước người sau

Mỗi người một nghiệp khác nhau

Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?

 

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi

Hoặc là nương ngọn suối chân mây

Hoặc là điếm cỏ bóng cây

Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ

Hoặc là nương thần từ Phật tự

Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông

Hoặc là trong quãng đồng không

Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre

 

Sống đã chịu một bề thảm thiết

Ruột héo khô dạ rét căm căm

Dãi dầu trong mấy mươi năm

Thở than dưới đất ăn nằm trên sương

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn

Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra

Lôi thôi bồng trẻ dắt già

Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.

 

Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ

Phóng hào quang cứu khổ độ u

Rắp hòa tứ hải quần chu

Não phiền trút sạch oán thù rửa không.

Nhờ đức Phật thần thông quảng đại

Chuyển pháp luân tam giới thập phương

Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương

Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.

 

Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh

Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao

Mười loài là những loài nàỏ

Gái, trai, già, trẻ đều vào nghe kinh.

Kiếp phù sinh như hình như ảnh

Có chữ rằng:“Vạn cảnh giai không”

Ai ơi lấy Phật làm lòng

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân lồị

Ðàn chẩn tế vâng lời Phật giáo

Của có khi bát cháo nén nhang

Gọi là manh áo thoi vàng

Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.

 

Ai đến đây dưới trên ngồi lại

Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ

Phép thiêng biến ít thành nhiều

Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.

Phật hữu tình từ bi phổ độ

Chớ ngại rằng: có có không không.

Nam mô chư Phật, Pháp, Tăng

Ðộ cho nhất thiết siêu thăng thượng đàị


 

2) Nội dung Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh

 

Bài văn chiêu hồn đã mô tả cảnh khổ đau của mọi hạng người trong xã hội từ những kẻ quyền thế cao sang đến người xó chợ đầu đường. Tất cả mọi người không ai có thể khước từ cái chết.

 

Tuy “mỗi người một nghiệp khác nhau” nhưng cầu Nại Hà thì không ai có thể không bước qua, chỉ là “kẻ trước ngườisau mà thôi!”

 

Cầu Nại Hà là gì? Tại nơi nào? chỗ

Cầu Nại Hà chữ Hán 奈何橋 (Nại Hà Kiều) là cây cầu ở tầng Địa Ngục Thứ Mười (Thập Điện Chuyển Luân Vương) bắc ngang qua sông Vong Xuyên (忘川) cuối cùng của Địa Ngục.

Theo truyền thuyết Trung Hoa, các linh hồn sau khi qua Cầu Nại Hà đều phải lựa chọn giữa uống hay không uống nước Canh Mạnh Bà tục gọi là "Cháo Lú" để quên đi mọi thứ từ kiếp trước để bắt đầu một kiếp mới. Những linh hồn chọn uống canh Mạnh bà sẽ được chuyển đến Phong Đô là cửa ngỏ đầu thai chuyển kiếp. Nhưng linh hồn từ chối canh Mạnh Bà sẽ không được chuyển đi đầu thai ngay mà phải chịu những dày vò và hình phạt ngàn năm dưới dòng Vong Xuyên (Sông Mất)

 

Theo sách Phật, cầu Nại Hà ở về phía Ðông của Thập Ðiện (tức mười tầng Ðịa Ngục), những người nghèo hèn và chết yểu (chết trẻ) đều phải đi qua cầu này để vào đường đầu thai sinh vào kiếp khác.

Nại Hà là tên con sông ở Ðịa Ngục có ba cái thác nhỏ, linh hồn các tội nhân khi đến đây phải hỏi xem nơi nào có thể lội qua được để khỏi trầm luân nên gọi là Nại Hà. Nguyên nghĩa  “nại hà” là “làm sao đâỷ?”; “chỗ nào đâỷ?”.

 

Kinh nghiệm đời cho thấy: con người khi còn sống trong xã hội, thì có phân biệt cao, thấp, sang, hèn... nhưng khi chết, thì đều bình đẳng! Nhất là những người chết mà trở thành cô hồn thì sự bình đẳng càng rõ rệt và thê thiết hơn:

 

“Thương thay thập loại chúng sinh

Hồn đơn, phách chiếc, lênh đênh quê người!

Hương lửa đã không nơi nương tựa

Hồn mồ côi lần lữa bấy niên

Còn chi ai khá, ai hèn

Còn chi mà nói kẻ hiền, người ngu”

 

Nguyễn Du đã tả những cảnh đời bi thương từ Dương gian đến Âm phủ: từ tiết đầu thu ảm đạm, thê lương của cõi dương chuyển sang cảnh “trường dạ tối tăm” bi thiết của cõi âm... để nêu ra các loại chúng sanh với những "nghiệp cảnh" khác nhau, nhưng tựu trung đều giống nhau về tính chất bi thảm!

 

Ðầu đề là “thập lọai” nhưng bài văn đã kể ra cả thảy là 16 nghiệp cảnh. Như vậy, chữ “mười” ở đây không phải là một số đếm thông thường mà là tiếng tượng trưng cho sự rộng khắp, bao trùm như trong cách nói “mười phân vẹn mười”, “nhân vô thập toàn”...

 

Các loại chúng sinh được nhắc đến trong văn tế:

 

1.- Những kẻ “tính đường kiêu hãnh” tức là loại tham danh vọng mà quên mạng sống.

2.- Những kẻ giàu sang sống trong “màn loan trướng huệ” tự kiêu, tự mãn về thân thế và nhan sắc...

3.- Những kẻ làm quan to “mũ cao áo rộng” cầm ngọn bút sinh, sát trong taỵ..

4.- Những tướng sĩ “bài binh bố trận” “đem mình vào cướp ấn nguyên nhung” theo đuổi chiến tranh, phơi thây trăm họ để dành công cho bản thân mình...

5.- Những kẻ tính đường trí phú, bôn ba lìa bỏ quê nhà để tìm cách được giàu sang...

6.- Những kẻ “rắp cầu chữ quý” tức đi tìm chút tiếng tăm trong xã hội

7.- Những kẻ vào sông ra bể, trong sóng gió hiểm nguỵ..

8.- Những kẻ thương buôn đường xa                                                              

9.- Những kẻ phải đi lính, đi dân công, làm phu

10.- Những kẻ sa cơ thất thế rơi vào hoàn cảnh “buôn nguyệt bán hoa”

11.- Những người hành khất “sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan”

12.- Những kẻ mắc vòng tù ngục oan khiên

13.- Những kẻ hữu sinh vô dưỡng tức chết non

14.- Những trẻ sơ sinh mất mẹ cha

15.- Những kẻ chết vì các loại nạn tai: thủy, hỏa, ác thú...

16.- Những kẻ vô tự tức không con cái, thân thuộc...

 

3) Ý Nghĩa Cảnh Giác Người Ðời

 

Nêu ra các cảnh khổ trong cõi âm, dường như Nguyễn Du muốn cảnh giác người sống trong cõi dương là nơi mà những cuộc tranh dành lợi danh, tiền của thường rất gắt gao và tàn bạọ.. Tác giả nhắc nhở, làm cho mọi người thấy rõ rằng:

“Sống thời tiền chảy bạc ròng

Thác không đem được một đồng nào đi”

 

Vậy thì tham lam của cải ở trần gian để làm gì? Tranh giành để có thật nhiều tiền bạc, châu báu để làm gì mà khi nhắm mắt lìa đời chỉ ra đi với hai bàn tay không?

Cả những kẻ đầy chiến công, đầy quyền lực cũng có khi gặp thế khuất vận cùng mà tiêu tan hết:

“Nói chi những buổi tranh hùng

Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau!

Bỗng phút đâu mưa sa ngói lỡ

Khôn đem mình làm đứa thất phu

Giàu sang càng nặng oán thù

Máu tươi lai láng xương khô rụng rời”

 

Và những người quyền cao, chức trọng, đủ tài văn võ cai trị đất nước tương đương với các bậc danh thần, mưu sĩ như Y Doãn giúp vua Nhà Thương, như Quản Nhạc (Quản Trọng và Nhạc Nghị thời Xuân Thu Chiến Quốc...) cuối cùng cũng không vượt thoát được cái chết, không ra ngoài luật “hữu sinh, hữu tử” và vô thường biến dịch:

 

“Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,

Ngọn bút son thác sống ở tay

Kinh luân găm một túi đầy

Ðã đêm Quản Nhạc lại ngày Y Chu

 

Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,

Trăm loài ma mồ nấm chung quanh

Ngàn vàn khôn đổi được mình

Lầu ca viện hát tan tành còn đâủ”

 

Nguyễn Du liệt kê các loại thân phận, đặc biệt là các cô hồn rồi kêu gọi các loại cô hồn hãy khôn ngoan tìm về Ðàn Chẩn Tế để lắng nghe kinh Phật..

 

“Sống đã chịu một bề thảm thiết

Ruột héo khô dạ rét căm căm

Dãi dầu trong mấy mươi năm

Thở than dưới đất ăn nằm trên sương

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn

Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra

Lôi thôi bồng trẻ dắt già

Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.”

 

"Thính Pháp Văn Kinh" để tu trì...để nương nhờ pháp Phật mà thoát khổ:

 

“Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ

Phóng hào quang cứu khổ độ u

Rắp hòa tứ hải quần chu

Não phiền trút sạch oán thù rửa không.”

 

Nguyễn Du cũng nói đến điều kiện cần và đủ để các cô hồn được siêu thoát, đó là “Lấy Phật làm lòng” và nhận rõ bản chất của cuộc đời nhân loại chỉ là những hình bóng nổi trôi, chỉ là "hình, danh, sắc, tướng"... không có gì là chắc chắn, là trường tồn cả:

 

“Mười loài là những loài nào

Gái, trai, già, trẻ đều vào nghe kinh.

Kiếp phù sinh như hình như ảnh

Có chữ rằng:“Vạn cảnh giai không”

Ai ơi lấy Phật làm lòng

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi...

 

Tóm lại, Văn tế Thập loại Chúng sinh của Nguyễn Du có thể xem như là một lời cảnh báo thế gian về các cuộc tranh chấp danh, lợi, bạc vàng, lãnh thổ, hơn thua gây bao nhiêu thảm kịch cho đời người.

Ðây là một áng thơ đáng cho mọi người suy gẫm... trong ngày Ðức Mục Kiền Liên tìm cách cứu mẹ khỏi các khổ hình của Ðịa Ngục để báo hiếu.

 

NGUYÊN CHÂU

(San Jose, Mùa Vu lan 2022)

 

 

No comments:

Post a Comment