Sunday, December 8, 2024

John E. Steinbeck - VỀ MÁI NHÀ XƯA


Chào bạn đọc


 




  Ngòi bút của văn hào John E. Steinbeck miêu tả sâu sắc. Từ phong cảnh, con người cho đến tình tiết tâm lý ông không bỏ qua một chi tiết nhỏ nào, những chi tiết có thể ít người để ý. 
Trong chương I, Khi ông mô tả cây bắp trong cơn đại hạn nước Mỹ vào năm 1939:
"...những chiếc lá non xanh của bắp không còn đứng thẳng được nữa; thoạt đầu chúng hơi cong lại, và rồi, phần giữa sóng lá yếu dần, từng chiếc lá khuỵu xuống. Giờ đây các đường viền cháy xậm của lá bắp lại lan rộng dần vào phần sóng lá ..."
hoặc miêu tả sự tấn công bắt đầu của lớp bụi khổng lồ:
"Cho đến lúc chúng tạo thành một lớp dày che kín mặt đất. Chúng đọng trên bắp, trên cọc hàng rào, đọng trên bao lớp hàng kẻm gai, dồn lớp trên mái nhà trên bao lớp cỏ dại cùng cây cối.."
Khi ông miêu tả sự lợi hại của những hạt giống cỏ ,nó có những móc gai để bám dễ dàng vào các vật tiếp chuyển hòng lan truyền giống của chúng ông viết:
-Tất cả đều thụ động đợi chờ nhưng lại trang bị những 'vũ khí' hết sức lợi hại,bền lặng, nhưng nó ẩn chứa một sức mạnh ban sơ cho vận động ...

Diễn tả tâm lý con người , ông miêu tả tình trạng chẳng đặng đừng không thể chối từ của người tài xế và tài khôn khéo của nguòi xin quá giang trong chương 2:
"Giờ nếu gã cho phép hắn vào, tự động gã là một người tốt, lại càng không phải kẻ chuyên bị những ông chủ giàu có 'chết tiệt' kể trên 'xài xể lung tung' được. Gã tài tự biết mình đang lâm vào thế kẹt, nhưng không thể tìm cách nào khá hơn" ...

John Steinbeck sống và lớn lên tại vùng nông nghiệp trù phú Salinas California, hình ảnh người nông dân còn đậm nét trong tâm trí ông, đó là lý do tại sao tác phẩm Những Chùm Nho Phẫn Nộ nổi tiếng vào thập niên 1940s, cùng với những thành công của các tác phẩm khác giúp ông thắng giải Nobel văn chương vào năm 1962...

Tiếp tục vào Chương IV, ông miêu tả phong cảnh của một đồng quê bị nạn hạn hán nặng nề nơi Tom Joad sẽ trở về sum họp với gia đình. Steinbeck không bỏ sót chi tiết nổi bật của nạn hạn hán khổng lồ...từ lớp bụi vàng dày cho đến ngách lá của hàng hàng lớp lớp cây bắp ngã rạp dưới sự thiêu đốt của nắng hạn. Từ con rùa cho đến khuôn mặt của người mục sư, Steinbeck cũng không bỏ sót từng chi tiết nhỏ. Bút pháp miêu tả của Steinbeck rất điêu luyện.

Trong chừng mực nào đó người dịch cố vận dụng bút pháp của mình sử dụng tiếng Việt lồng cho chính xác vào trong ngữ cảnh của John Steinbeck để lột hết ý của Nhà Văn

mời bạn tiếp tục vào chương 4 



TRUYỆN DỊCH- VỀ MÁI NHÀ XƯA


by ĐHL

  
   Chiếc xe tải chạy đi. Tiếng đổi số leo dốc, tiếng bánh rít trên mặt đường làm Tom Joad dừng chân ngẩng nhìn đến khi hình ảnh chiếc xe khuất dần. Anh đứng tần ngần nhìn cho đến khi hình bóng nó mất hút trong làn khói xanh lam lung linh bốc lên phía xa.

   Joad cẩn thận kéo chai rượu Whisky nhỏ từ túi bên, vặn cái nắp kim loại ra, xong nhẹ nhàng nhắp một ngụm. Anh le lưỡi, cố ngoáy sâu vào cổ chai như muốn hút hết giọt rượu cuối cùng, xong gật gù lẩm bẩm mấy chữ còn nhớ...

" Chúng tao từng rình một thằng da đen nơi đó…"

 Cuối cùng, anh đổi huớng đi về tay phải vào một con đường đất thẳng góc với cánh đồng. Trời nắng chang chang, không ngọn gió nào cuốn bụi lên. Mặt đường lồi lõm do bánh xe chạy, lắng đầy những lớp bụi dày. Chỉ vài bước, Joad nhận ra đôi giày mới của mình dính đầy một lớp bụi đất. Đôi giày màu vàng giờ đã bị lớp đất nâu che mất.

  Anh chàng cúi xuống tháo dây giày, cởi chiếc này xong đến chiếc khác. Anh cảm thấy thoải mái lúc dẫm bàn chân ẩm ướt mồ hôi lên nền đất cho đến một lúc lớp đất bụi nóng bỏng len qua kẻ chân, trào lên lớp da trên bàn chân làm anh nóng ran. Joad cởi chiếc áo khoác, túm đôi giày vào trong, mang lúc lắc bên tay.  Anh bước nhanh, đá lớp bụi tung ra trước sau đó chúng còn lại một lớp mờ nhạt, la đà phía sau.

tài tử điện ảnh Mỹ Henry Fonda (1905-1982)
 
Henry Fonda vai Tom Joad trong cuốn phim The Grapes of Wrath (1940)

 Tom Joad trong phim The Grapes of Wrath

  






 Bên phải  đường có một hàng rào, được dựng từ một hàng cọc liễu nối với nhau bằng  hai hàng kẻm gai. Mấy cái cọc cong queo, gọt dũa sơ sài.  Dây thép cuốn vào mấy cái ngạnh nếu ngang tầm, chỗ nào không sẵn ngạnh, thì sợi kẻm được buộc vào cọc bằng một dây thép rỉ. Nhìn qua hàng rào, ta có thể thấy những hàng bắp ngã rạp dưới cơn gió nóng, giữa ngách lá nối liền thân bắp giờ chứa đầy đất.

    Joad lê bước dọc con đường. Đám bụi vàng vẫn theo bước chân anh. Có chú rùa đất, cái mai cong vòng đang chậm chạp bò qua đám đất đằng trước anh một khoảng ngắn. Chú rùa bò chậm, có vẻ lừng khừng. Joad chợt dừng lại ngắm chú rùa, bóng anh phủ lên lưng nó. Lập tức, cái đầu, cẳng con rùa thụt ngay vào; cái đuôi tròn to cụt ngủn cũng rụt vào cái mai. Joad cầm chú rùa lên, lật ngữa xem chơi. Khác với phần lưng màu xám nâu,  màu đất, phần dưới cái mai nó lại mang màu vàng kem, óng ả, láng mượt. Joad đổi cái xách đồ qua tay kia, dùng ngón tay ấn thử phần da bụng mềm mại óng mượt đó xem sao. Rõ ràng nó mềm hơn phần lưng. Cái đầu cứng ngắt chú rùa hơi nhô ra xem thử ngón tay anh đang làm gì, mấy cải cẳng nó đạp lia lịa. Con  rùa  sợ bắn ướt luôn bàn tay Joad. Nó cố chống cự một cách tuyệt vọng trên cao. Joad  lật chú rùa lại, cùng cuộn nó vào trong cùng chung chiếc áo với đôi giày. Dưới cánh tay, anh cảm thấy chú rùa đang vẫy  đạp lung tung.  Anh gắng đi nhanh hơn, gót chân  kéo lê trên mặt đất đang phủ đầy một lớp dày đầy bụi mịn.


'
một cảnh trong phim The Grapes of Wrath (1940 Henry Fonda vai chính trong vai Tom Joad) -Tom Joad ra khỏi tù, trên đường về nhà anh gặp thầy Jim Casy người quen biết và đã từ bỏ chức vụ mục sư 



  Trước mặt anh, sát đường có cây liễu gầy guộc, nhuốm đầy bụi đất. Bóng im bên trong lổ đổ nhiều hạt nắng lung linh. Mấy nhánh cây khẳng khiu như muốn vươn ra đường, làm rộ những đám lá gầy gò, tả tơi, chẳng khác hình ảnh con gà lông bị vặt hết.

 Người Joad  đẫm mồ hôi. Chiếc sơ mi xanh,  phần lưng và phần dưới hai cánh tay, đổi màu đậm hơn. Anh lại kéo thấp cái lưỡi trai của chiếc mũ làm cong thêm phần giữa. Lớp giấy cứng bên trong gãy đôi. Giờ cái mũ lưỡi trai hoàn toàn không còn mới. Joad gắng bước, cố nhanh chân lại núp nắng dưới bóng cây liễu đàng đó. Chỉ có cây liễu này mới có một bóng im  đậm đặc. Đó là cái bóng duy nhất từ cái thân một thân cây khi mặt trời lên cao vượt qua điểm chính ngọ (zenith). 


Thầy Giảng Đạo Jim Casy

  Ánh nắng nóng, rát quất vào gáy làm đầu Joad  choáng váng. Gốc cây kia chẳng thấy do nó mọc ra từ một hẳm đất, nhưng nhờ vậy mới giúp cho cây kia giữ nước lâu hơn khi nó mọc trên nền đất bằng phẳng. Joad phóng nhanh hầu mong chạy trốn sức nóng thì vừa kịp đổ dốc. Anh chậm chân lại khi vừa đạt tới cái bóng im mong đợi. 

tài tử John Carradine (1906-1988) trong vai thầy  Jim Casy

Nơi đó có một người đàn ông đang ngồi bệt dưới đất, lưng dựa vào gốc cây. Hai chân ông bắt chéo, để bàn chân trần ngểnh cao gần ngang đầu. Ông ta chưa nghe tiếng chân Joad tới gần do mải mê huýt gió bản "Vâng thưa Ngài, Đây là Người Tôi Yêu Nhất ". 


                   Thầy Giảng Đạo Casy 

Một cẳng duỗi dài đang đung đưa theo điệu nhạc. Không hẳn là một điệu khiêu vũ. Ông ta lại ngưng huýt gió. Bằng một giọng cao, rời rạc, ông hát:

"Đúng Thưa Ngài, là Đấng Cứu Rỗi của con,

Chính Giêsu là Đấng Cứu Cứu Rỗi của con

Đức Giêsu giờ đây, ngài là Đấng Cứu Rỗi cho con

Trên trần gian này

Giêsu, ngài không hề là người ác

Đức Giêsu, giờ đây ngài là Đấng Cứu Rỗi cho con "

  Joad bước vào bóng im loang lổ nắng do lùm cây kia rụng bớt lá. Ông ta vội ngưng hát, quay đầu nhìn. Người này có cái đầu dài, xương xẩu, làn da  đầu căng láng, cùng cái cổ lộ rõ từng thớ thịt như mấy chiếc cuống của bó cần tây. Hai tròng mắt lồi, nặng nề. Mí mắt lại như căng ra để che hai con mắt, trông như đang sưng lên. Đôi gò má ông mang màu da nâu sậm, láng bóng. Ông lại không chút râu nào nên trên cái miệng trông thật khôi hài. Nói đúng hơn dễ làm cho người khác thích thú. Cái mũi khoằm như mỏ chim, lại cứng. Da mũi lại quá căng khiến cái sóng mũi trở thành nhợt nhạt. Chẳng có chút mồ hôi nào trên khuôn mặt đó, ngay cả vầng trán cao tai tái kia. Một vầng trán cao dị thuờng, hai bên màng tang lại nổi những đường gân máu xanh nhạt. Nếu nói thế, thì từ đôi mắt trở lên đã chiếm hết nửa khuôn mặt rồi! Những sợi tóc bạc cứng ngắt, mọc từ lông mày; rối tung, giống như ông ta chuyên dùng ngón tay vuốt tóc lui sau. Người đó lại bận bộ quần áo treo (overalls) bên trong có cái sơ mi xanh. Cái áo khoác tay dài với hàng nút đồng, một cái mũ nồi, lốm đốm, màu nâu nhàu nát vứt trên nền đất. Đôi giày vải nhuốm màu bụi xám ngắt, bị đá hất tung khi tháo, nằm bên cạnh.

  Người đàn ông đó giờ ngước nhìn Joad một chập lâu. Ánh sáng áng chừng tràn sâu vào sâu vào đôi mắt nâu, xong hắt ra vài tia, lấp lánh sâu từ con ngươi. Những thớ thịt dưới cần cổ ông giờ lại nổi lên.

  Joad vẫn đứng yên trong bóng im rời rạc nắng đó. Anh lại cầm mũ lau vội mồ hôi trên mặt, xong buông gói đồ hay cái gói bằng chiếc áo khoác xuống đất.  Người núp dưới bóng im thôi bắt chéo hai chân và thả đầu ngón chân xuống đất.

Joad cất tiếng chào trước:

-Chào ông, trời nóng như thiêu ông ơi!

Ông ta nhìn chằm chặp vào Joad như dò hỏi, xong  cất tiếng:

- Phải cậu là Tom Joad, con của Già Tom không vậy?!

-Dạ vâng đúng rồi! chính con đây, con đang về nhà đây.

-Ta đoán ngay là cậu mà. Cậu quên ta rồi sao?


Ông đó mĩm cười, môi hở ra để lộ hàm răng to bản:

-Ồ! Con cứ mãi một việc là kéo bím tóc cô bé đó khi ta làm Phép Thánh cho. Con túm hết tóc cô ta. Có thể con không nhớ, nhưng ta nhớ. Cả hai con đều tới với Giêsu cùng một lần nhờ vào bím tóc đó. Hai con đều được rửa tội một lần cũng từ con mương thủy lợi. Đánh nhau, la hét như hai con mèo không bằng.

 Joad vẫn nhìn ông với đôi mắt lờ đờ, chợt anh cười phá lên:

-Ô tại sao? Con nhận ra rồi, chính Thầy là Thầy Giảng Đạo đây mà.  Mới một giờ trước đây thôi, con vừa đi vừa nhớ lại Thầy.

--Đúng, ta là Thầy Đạo đây!

Người đàn ông giờ nghiêm nghị trả lời Joad.

-Hãy tôn kính Jim Casy như ta, vì ta là người được Chúa Giao Truyền, có trọng trách gọi tên Giêsu mà đến với vinh quang và thuờng dùng con mương nước đó nơi mà những con người tội lỗi đang vẫy vùng- lay hoay -ăn năn sám hối và một nửa đang chìm. Nhưng chưa hết đâu.

Ông thở dài:

- Jim Casy ta bây giờ không còn lời gọi nào nữa do ta nhiều tội lỗi lắm rồi.


Joad đỡ lời:

-Thầy ơi! mỗi khi nghĩ về vấn đề nào đó, thầy cứ mãi bị ràng buộc. Quả là dịp may khi gặp thầy.  Có lần thầy vừa đi quanh giảng hết trọn bài thuyết giáo, tay che đầu nói hết cả hơi. MÁ con ủng hộ thầy hơn bất cứ ai khác. Ngay cả BÀ Nội con nữa, BÀ cho rằng lòng thầy tràn đầy ăm ắp.


 Joad bới trong cái áo khoác, tìm chai rượu.  Chân con rùa hơi động đậy,  nó cuộn mình thật kỹ. Anh mở nắp chai rượu chìa về phía Thầy Đạo:

        -Mời thầy nhắp một tí?

 Thầy đạo Casy đỡ chai rượu, ngắm nghía xong ông thẩn thờ:

-Giờ ta không còn giảng đạo nữa. Thánh thần không còn độ linh hồn ta, tàn tệ! thánh thần không ở trong ta nữa rồi. Dĩ nhiên giờ và ngày mai thánh thần đã đi xa khỏi ta. Ta lánh xa mọi người. Mọi người bày thức ăn,  ta cho họ vinh dự, nhưng con tim ta không còn nằm trong đó. Ta chỉ biết thi hành những gì họ mong chờ thôi.

Joad lại đưa chiếc mũ lưỡi trai chùi mồ hôi:

 -Xin thầy đừng phiền muộn, đừng nghĩ đó là tội lỗi, uống chút rượu đi thầy?

Anh niềm nở mời Thầy.


Hình như đây lần đầu tiên Thầy đạo Casy thấy chai rượu loại này. Thầy nghiêng chai làm ba ngụm thật nhiều.

 -Rượu ngon thật!

-Dạ đúng vậy...Joad tiếp lời

-Đó là hãng rượu xứng đồng tiền. (cost a buck)

Thầy Casy uống thêm ngụm nữa trước khi trả chai rượu lại cho Joad.

 -Đúng, đúng

Ông gật gù.

 Joad đỡ chai rượu từ ông, giữ lễ phép, anh không dám dùng tay áo chùi miệng chai trước khi uống tiếp. Ngồi chồm hỗm trên nhượng chân, anh đặt chai rượu đứng thẳng trong cuộn đồ kia. Lấy ngón tay cắp một que nhỏ, anh phủi mấy chiếc lá trên nền đất. Xong, anh làm bằng một khoảng vuông. Vẽ vu vơ vài hình tam giác, những hình tròn bên trong.

  -Đã lâu rồi con không được gặp thầy.

  -Chẳng có ai gặp được ta cả.

-Một mình ta ra đi,  rồi ta ngồi tự hình dung lại. Thánh Thần còn đầy sức mạnh trong ta, chỉ có điều không còn giống trước. Ta chẳng còn chắc chắn được nhiều điều.

***

  Người thầy đạo tiếp tục ngồi thẳng dậy, lưng tựa vào thân cây. Bàn tay xương xẩu, như con sóc  thọc sâu vào cái túi rộng đằng trước lấy ra gói thuốc nhai màu đen. Cẩn thận, ông phủi đi cọng rơm và mấy sợi lông xám trong cái túi, xong ông cắn bên góc một mẫu thuốc đưa sâu vào bên má. Joad huơ chiếc que ra hiệu từ chối khi gói thuốc chìa tới mời anh. Chú rùa vẫn nằm gọn trong cái gói đang cuộn lại kia. Thầy Casy chú ý đến gói áo lại nhúc nhích:

-Cái gì thế kia, con gà hả? Con làm nó ngột thở đó nghe?

Joad cuốn chặt lại gói áo.

-Nó chỉ là con rùa già đó thầy. Con lượm nó giữa đường. Nó trông tựa chiếc xe ủi đất. Dầu sao con  phải đem về nhà cho mấy em con, bọn nhỏ nó thích rùa lắm.

Người thầy chầm chậm gật gù:

 -Trẻ con thuờng thích có con rùa để chơi hay thứ gì khác. Dầu sao, không ai giữ mãi con rùa. Chúng chơi mãi với nó, chơi mãi cho đến một ngày kia chúng bỏ đi một nơi nào đó. Giống ta đây không giữ mãi điều lành trong sách Phúc Âm ngay trong bàn tay. Ta cầm được nó giảng mãi cho đến một ngày ta làm nó tan nát. Ta đã đạt thánh thần và không cần rao giảng  Ta có lời mời dẫn dắt con người, nhưng không biết dẫn đến nơi nào?

-Thế thì thầy cứ dẫn dắt mọi người đi lanh quanh

Joad chợt thốt lên:

-Treo họ tại mương nước trong Thánh Kinh. Hãy cho họ biết họ sẽ bị thiêu trong địa ngục nếu không suy nghĩ giống thầy. Có quái gì mà thầy phải lo chuyện dẫn họ tới đâu. Thầy chỉ lo dẫn dắt họ thôi.

========================


Trong 2 Các Vua 3, chúng ta tường thuật về sự giải cứu tuyệt vời của ba vị vua khi họ bị mắc kẹt trong đồng vắng khô cằn không có nước. Chúng ta đọc cách Chúa gửi nước mà không gặp gió hay mưa; nước đến một cách bí ẩn từ hướng của Ê-đôm. Trong 2 Các Vua 3,16, tiên tri Ê-li-sê bảo ba vua (các vua Y-sơ-ra-ên, Giu-đa và Ê-đôm) đào mương để lấy nước sẽ đến. Bằng cách đó, họ và quân đội của họ và những con thú của họ có thể uống nước và được cứu. (trích nguyên văn từ WIKIPEDIA)

=============  

Joad hơi nhúc nhích, vẫn ngồi chồm hổm. Anh lại làm một khoảng đất phẳng khác, dùng que phác họa những ý tưởng trong đầu.

  Có con chó loại chăn cừu,  bộ lông dày, vàng huơm đang lăng quăng theo con đường chạy xuống. Lưỡi nó thè ra, nước dãi nhỏ giọt. Cái đuôi ẻo lả cuốn lại. Con chó thở hồng hộc. Joad huýt gió kêu thử. Đầu con chó cúi thấp xuống một ít. Nó vẫn phóng nhanh về phía trước, chẳng biết đi đâu?

  -Nó đang tìm về một nơi nào đó.

Joad giải thích, hơi chút tự ái anh tiếp:

-Có thể nó đang chạy về nhà cũng nên.

Thầy Đạo không bỏ qua điểm này:

-Đi tới nơi nào đó? 

Vị thầy lập lại:

-Được thôi, nó đang đi tới một nơi nào đó. Chính ta, ta không biết ta đang đi về đâu đây nè. 

Ta nói cho con nghe điều này: ta thuờng dạy người ta nói thứ tiếng của Thánh Thần (talking in tongues-chỉ có thánh thần biết thôi) và hét lên một cách vinh dự cho đến một lúc tất cả họ đều hôn mê. Lại có số khác, ta rửa tội cho họ, xong lại mang họ đến. Và rồi con biết ta sẽ làm gì không? Và ta chọn một cô gái trong họ đem ra ngoài bãi cỏ cùng nằm với cô ta, rất lâu. Rồi ta cảm thấy xấu xa tội lỗi, rồi ta cầu nguyện, cầu nguyện, nhưng vẫn không hết tội. Lại một lần nữa,họ và ta đều tràn đầy tội lỗi. Ta lại làm như thế. Ta tưởng chừng không còn hi vọng, ta là một tên đạo đức giả khả ố. 'Nhưng ta đâu muốn vậy?

 Joad mĩm cười, liếm môi, hàm răng lộ ra:

-Không có gì dễ tội lỗi hơn, quyến rũ hơn,  khi gặp nhau lại xô ngã họ xuống ..

Anh phụ họa:

 -Chính con cũng làm vậy.

Thầy Casy hơi chồm người phía trước đầy vẻ phấn kích:

-Con thấy đó...

Giọng ông đầy xúc động:

  -Ta biết khi đó là ta phải suy nghĩ.

Ông đưa bàn tay đầy những đốt xương xẩu, vẩy lên xuống theo nhịp nói của mình:

  -Ta cho rằng vì vinh dự trong ta là người thầy giảng đạo và vinh dự cho người hằng đến với ta, cung phụng ta, người con gái đến từ thế giới của quỷ ma, của những sắc đẹp quyến rũ trong nàng. Nàng từng muốn cùng ta ra ngoài bãi cỏ,  nơi ta không hiểu sao ma quỷ lại nhập vào được? Khi nàng tràn đầy sức mạnh thiên thần, ta thấy qua mũi và tai nàng. Như con thấy đó quỷ ma ít có cơ hội tới đây, nhưng rồi nó cũng tới được?


  Mắt ông ta long lanh đầy vẻ phấn kích. Gò má ông hơi nhúc nhích, xong ông nhổ một bãi nước bọt xuống đất.  Bãi nước bọt lăn tròn cuốn theo bụi khô, cuối cùng nằm yên như một viên đạn nhỏ khô khốc. Thầy đạo xòe mấy ngón tay rồi nhìn vào lòng bàn tay, y như đọc sách:

-Và ngay đó chính ta …

Giọng ông dịu lại:

-Nơi đó ta chính là người trách nhiệm chăn dắt. Linh hồn mọi người trong bàn tay ta, thế mà ta nằm với một người con gái.

Ông chợt nhìn qua Joad, nét tuyệt vọng như cầu khẩn van xin.

Joad cẩn thận vẽ thân hình đàn bà từ ngực xuống xương chậu và phần mông:

-Con không bao giờ làm thầy giảng.

Anh ta bật lên giọng nói chắc nịch:

-Con chưa bao giờ cho đứa con gái nào luột khỏi tay con nếu con có khả năng bắt giữ được nàng. Con không bao giờ suy nghĩ lung tung với những cái ý nghĩ chết tiệt (goddamn) kia mỗi khi có trong vòng tay con rồi.

-Nhưng con không là thầy đạo.

Casy nhấn mạnh:

-Đối với con, con gái chỉ là con gái thôi. Con gái không là gì đối với con cả. Nhưng đối với ta là cả con tàu thánh thiện. Ta đang cứu rỗi linh hồn họ. Và cả muôn ngàn trách nhiệm của Thánh Thần thế rồi ta đem họ ra bãi cỏ kia !?

-Có thể con cũng thích làm thầy giảng đạo rồi đây!

Joad thích chí nói xong lại kéo bao thuốc cùng giấy ra quấn một điếu.

Anh thắp điếu thuốc, nheo mắt nhìn người thầy đạo qua làn khói:

  -Suốt một thời gian dài con thiếu đàn bà 

 anh tiếp:

-Có thể con phải kiếm một nàng mới được!

Thầy Casy  tiếp tục:

-Ta lo lắng đến nổi không còn ngủ được. Ta đi đọc kinh và khấn nguyện như vầy 'lạy Chúa! từ nay con sẽ không còn tái phạm nũa, và lúc ta nguyện thế ta biết ta thật lòng như thế .

-Thầy nên lấy vợ đi

 Joad mách nước tiếp:

-Ở chỗ con,  con nhớ hồi đó có ông thầy đạo vẫn ở chung với vợ mà. Họ những người đạo Jehovah ngủ trên gác nhà con. Họ thuờng họp đạo sau khu chuồng trại chúng con. Bọn trẻ chúng con có thể nghe nghe tiếng vợ thầy đó giảng đạo ào ào bên tai hàng đêm đó thầy ơi!

Thầy Casy bộc lộ:

-Ta mừng khi con mách với ta điều này.

-Ta cho rằng chỉ có mình ta mang nỗi đau riêng. Ta mà đi biệt và để lại cho nàng một nỗi nhớ mông lung. (damn good thinking about)

Người thầy giờ đưa cả hai chân cùng gãi vào giữa các ngón chân bẩn thỉu.

- Ta bụng bảo dạ rằng 'cái gì đang gặm nhắm nhà ngươi? phải chăng là một cái đinh đóng chặt rồi chăng? Ta tự nhủ 'không, đó là tội lỗi' . Ta lại nói 'tại sao người đó có lúc lại cố gắng chống lại cám dỗ của tội lỗi như đang có Giêsu cạnh bên, nhưng sao người đó lại là lúc đặt ngón tay gỡ hàng nút quần thế kia?


Thầy đạo vừa nói vừa đánh nhịp hai ngón tay vào lòng bàn tay mình như đặt từng chữ vào lòng bàn tay đó theo nhịp nói:

-Ta tự nhủ 'có thể đó chưa là tội lỗi. Có thể, cách sống của người là thế. Có thể người ta cứ tự nổi điên hành hạ mình không vì gì cả. Rồi ta nghĩ sao mấy bà nữ tu tự đánh vào thân với chùm roi dài ba tấc thế kia,(three-foot shag of bobwire) có thể ta thích tự hành hạ thân mình. Tốt, ta hay nằm dưới gốc cây suy nghĩ điều nay trước khi nhắm mắt ngủ. Lúc trời về đêm, tối bưng, có bầy chó sói tới gần kêu quang quác gần ta sau khi ta nói 'chả quái gì hết. Không có gì gọi là tội lỗi hay đức hạnh'. Chỉ là chuyện do con người làm. Cùng là một chuyện giống nhau có kẻ làm tốt có người làm không tốt, nhưng cuối hết là chuyện bất cứ kẻ nào cũng phải được quyền nói ra.


Ông ta dừng lại rồi nhìn vào lòng bàn tay, nơi ông thầm đặt lời nói vào.

Joad cười nhìn ông, ánh mắt sắc nhọn, thoáng chút thích thú:

-Thầy chỉ quen qua cô ấy và rồi quên luôn.

Thầy Casy lại tiếp tục nói, giọng ông xem bộ đau đớn, thua cuộc:

-Ta nói 'Thánh Thần gọi gì đây? 'đó là tình yêu, ta yêu thuơng hết mọi người, tình yêu ta rất cuồng nhiệt, và ta tự nhủ ' người có yêu Giêsu không? Ô! ta suy nghĩ và suy nghĩ mãi cuối cùng ta nói: 'không, ta không biết tên ai cả,Giêsu, ta biết nhiều chuyện nhưng chỉ một chuyện là thuơng yêu hết mọi người. Ta muốn họ hạnh phúc ta yêu họ vô cùng tận rt muốn họ sung sướng, và rồi con mẹ nó! ta nói quá nhiều. Có thể con cho ta dùng nhiều từ tục tỉu. Vâng, ta chẳng coi nó xấu xa. Thiên hạ hay dùng những từ tục tỉu này, nó không xấu xa gì theo ý họ.  Dầu sao, ta cũng kể cho con môt chuyện ta; đối với một thầy giảng đạo là điều vô đạo nhất, ta không thể làm thầy giảng được- ta nghĩ và ta tin ta không thể.

-Tại Sao? Joad ngạc nhiên hỏi 

Thầy Casy hổ thẹn nhìn anh:

-Nếu con sai con có gắng chống lại nó không?

-Con sẽ không chống lại ngoại trừ ai đánh mạnh vào mũi.

-Thầy nói có ý gì hả thầy ?

-Ta có ý nói về Thánh -Thần và con đường Giêsu. Ta tưởng tượng: 'tại sao chúng ta cứ bám vào Chúa Trời và Giêsu. Hay theo ta nghĩ: ' có thể  chúng ta yêu mến hết tất cả đàn ông và đàn bà vì đó là Thánh Thần cho linh hồn -toàn bộ là chừng ấy. Có thể mọi đàn ông là phần hồn, phần quan trọng nhất trong thân ta' giờ ta ngồi nghĩ suy, bất ngờ ta biết được điều đó, hiểu sâu sắc rằng đó là sự thật- Cho đến bây giờ vẫn thế.

Đôi mắt Joad ngó xuống đất như  không thể biết được sự thật trần trụi trong mắt nguòi thầy đạo kia:

-Với ý nghĩ đó thầy sẽ không ở được nhà thờ nào đâu!

Anh giải thích tiếp:

-Người ta sẽ đuổi thầy ra khỏi nhà thờ bởi những ý nghĩ kia, lại còn nhảy lên la hét nữa đó thầy ơi. Đó là nguòi ta thích khi bị xúc phạm. BÀ nội con nói trong cơn lên đồng, thầy không thể nào trói bà lại, Bà có sức mạnh dùng nắm tay quất ngã một phó tế to con.

Thầy Casy nhìn anh lo lắng:

-Ta cần hỏi con vài thứ được không?

-Thầy cứ hỏi, con sẽ nói.

-Tốt lắm.

Thầy đạo từ từ tiếp:

-Với con, ngày đó  ta rữa tội cho con khi ta còn đứng dưới bóng vinh quang. Nói lời Chúa phát ra từ miệng ta. Con chắc không còn nhớ vì con đang lo kéo bím tóc cô gái.

-Con nhớ rồi, đó là Susy Little, nàng ta tiêu sạch tiền con ngay năm sau đó.

-Ồ! sau lễ rửa tội thì cuộc đời hai người ra sao, có hạnh phúc không?

Joad suy nghĩ cho câu trả lời:

-KHÔNG thưa thầy, con không thể nói hết mọi thứ thầy à.

-Ồ có điều tệ lắm phải không? nghĩ kỹ đi.

Joad lấy chai rượu uống chỉ một nhấp:

-Chẳng đáng gì để nói tốt hay xấu, con vui vẻ là được.

Nói xong anh trao cái chai qua vị thầy đạo.

Ông thở dài cùng uống một nhấp, liếc nhìn chai whisky nay đã cạn, rồi tiếp thêm một tí xíu rượu nữa:

-Rượu ngon quá! ông lại khen lần nữa.

-Ta thật lo lắng những người xung quanh ta, ta đã làm người ta đau đớn.

  Joad chợt nhìn qua chiếc áo thấy chú rùa vừa chui ra. Nó đang vội vả chạy trốn về lại huớng mà Joad  bắt nó. Joad  nhìn, vội rón rén bước theo tóm chân chú rùa, gói kỹ trong chiếc áo khoác một lần nữa.

-Con không có thứ quà nào cho em út cả Thầy ạ.

 Joad như phân trần:

…chỉ có con rùa già này là quà cho chúng thôi.

Pa Joad




Thầy đạo chợt nhớ ra:

-Thật buồn cười ...ta nhớ ba con- Già Tom Joad, khi con vắng nhà, ta hay tới thăm, ông ta như gã vô thần, giờ  Già Tom ra sao?

-Con cũng chẳng biết ba con ra sao, con xa nhà bốn năm nay thầy ơi!

-Thế ông không viết thư thăm con à?

Joad bối rối:

-Ồ, ba con chẳng bao giờ đưa tay ra viết thư lần nào. Ông ký tên khá đẹp như mọi người khác, xong lại cắn bút. Nhưng ba con chưa hề viết một lá thư. Ba con luôn nghĩ rằng cái gì ông không nói được thì cũng không có giá trị để viết ra cả.

-Ba con đi đâu xa phải không? thầy Casy hỏi tiếp.

Joad nhìn ông có vẻ khó hiểu:

-Thầy không nghe gì về con hả? In đầy trong báo đó mà?

-Không, chưa bao giờ… chuyện gì vậy?

 Hỏi xong ông co một cẳng gác qua chân kia, ngồi hơi thấp xuống, dựa vào gốc cây. Buổi trưa càng lên cao nhanh chóng, giọng nói càng to hơn dưới ánh nắng.

Joad nói bằng một giọng cởi mở:

-Nếu Chúa còn ban nhiệm vụ cho thầy đi rao giảng, chắc con chẳng dám kể chuyện này, con e thầy sẽ tiếp tục cầu nguyện cho con.

Anh uống cạn chai rượu và ném cái chai đi. Cái chai lép, chuồi nhẹ trên mặt đất.

-Con bị giam ở nhà tù McAleser bốn năm thầy ạ.

Thầy Casy vội xoay người nhìn anh cặp lông mày nhíu xuống làm vầng trán ông nhìn càng cao hơn.

-Con có ngại nói với ta không vậy? nếu con làm điều gì tệ hại thì ta chẳng hỏi làm gì.

-Con làm những gì thì đã làm rồi--Joad lý sự

-Con đã giết một người khi cãi  nhau. Chúng con đều say trong cuộc khiêu vũ. Hắn đâm con một dao, sẵn cái xẻng cạnh bên, con choang vào đầu hắn và hắn gục xuống.

Lông mày thầy đạo Casy trở về vị trí cũ:

-Sau này con có ăn năn chuyện mình làm không?

-Không.

 Joad  chắc chắn:

-Con chẳng hối tiếc, đúng ra con phải chịu bảy năm tù nhưng nó lụi con một dao nên con được giảm còn lại bốn năm tù thôi.

-Rồi con không còn nhận được tin tức bà con suốt bốn năm trời?

-Ô, con nghe. Hai năm trước MÁ con gửi con tấm thiệp, và tấm thiệp Giáng Sinh năm ngoái thì của BÀ. Lạy chúa, mấy người bạn tù reo cười. Tấm thiệp lấp lánh hình như tuyết rơi có đề mấy câu thơ:

Chúc Mừng Giáng Sinh đứa con xinh

Giêsu nhân ái và Giêsu hiền lành

Hôm nay dưới cây Giáng sinh

Có gói quà từ ta gửi đến.


  Con đoán BÀ chưa bao giờ đọc mấy câu này. Có thể bà lựa cái thiệp nào óng ánh đẹp nhất moi  ra trong cái trống để gữi cho con. Mấy thằng bạn tù chết tiệt ngồi gần con cười ngặt nghẻo . Giêsu nhân từ thật vì họ cho con ra tù sau đó. Riêng BÀ thì không bao giờ cho cái thiệp là buồn cười mà  đẹp dù bà không còn đọc được vì mất kiếng vào năm con lớn. Có thể bà không bao giờ tìm ra nó nữa.

-Nhà tù McAlester đối xử ra sao với con?

Thầy đạo Casy lái qua chuyện khác.

-Ô khá tốt; ở đó người ta cho ăn đều đặn, áo quần sạch sẽ còn có nơi  tắm rửa.  Vậy là tốt rồi, chỉ có là 'thiếu đàn bà' thôi.

Nói xong anh ta phá lên cười.

-Có một gã được tạm tha- anh kể:

-Khoảng một tháng sau anh ta trở lại, có người hỏi tại sao trở lại lao tù , anh ta nói ngoài kia ở với ông già thật khổ: không điện, không có nước tắm, không có sách đọc lại thức ăn quá nghèo thế là anh muốn quay lại nơi này tuy ít tiện nghi lại được cho ăn đều đặn. Gã còn nói ngoài kia gã cảm thấy cô độc, do vậy gã tìm cách trộm chiếc xe nào đó và được cho trở về tù.

 Joad lấy gói thuốc, thổi một tờ giấy màu nâu nằm cạnh lưng gói thuốc bung ra, xong vấn một điếu.

-Tối qua lo tìm chỗ ngủ, con chợt nhớ lại cái giừong tầng, có người tù quái dị chung phòng. Thật đáng sợ, chúng có cả băng đảng trong đó. Hắn còn  bắt nghe radio, và con không biết giờ giấc nào mà dậy phải nằm gắng đợi chuông trại kêu.

Casy chắc lưỡi

-Có người chắc hẳn phải nhớ tiếng ngáy, âm thanh như một hãng cưa làm ở đó không bằng.

***

   Ánh nắng cùng bụi bậm đúng trưa nhuộm màu vàng  khắp cả cánh đồng. Bao thân bắp đều mang một màu vàng. Vài con én liệng ngang. Chúng đi tìm nguồn nước nào đó. Chú rùa trong gói áo giò đây đang cục cựa tìm cách thoát thân. Joad  gấp cái lưỡi trai, phần trước cái mũ. Bề trước nó giờ trông giống cái mỏ chim quạ.

-Mình mong sao chuồn êm cho rồi--, Joad thầm nghĩ..

Mình quá ghét trời nóng kiểu này, nhưng giờ coi bộ đỡ khổ.

  Thầy Casy xích lại gần hơn:

-Ta vắng Già Tom lâu rồi, cách nào ta cũng phải tìm cách ghé thăm lão. Ta từng mang Giêsu đến gia đình con khá lâu. Ta nhớ chẳng hề quyên tiền tại nhà con, không gì hết, ngoại trừ một bữa ăn đạm bạc.

-Thế thì thầy theo con --Joad bằng lòng ngay.

-Gặp lại thầy chắc PA con mừng lắm. Ba con hay nói thầy cứ 'giữ giới'  thầy tu quá lâu (get too long a pecker for a preacher).

Nói xong Joad vớ lại cuộn áo có đôi giày và chú rùa gói chặt bên trong.

Thầy Casy lượm lại đôi giày vải,  xỏ đôi chân trần vào.

-Có thể con chưa hẳn là tin ta--ông làu bàu,

- Không biết có kẻm gai hay mẻ chai dưới đất không?  nhưng ta sợ đứt chân lắm !

 Họ tần ngần một lát trong im, xong vụt bước ra ánh nắng gay gắt bên ngoài chẳng khác gì hai người bơi xong chạy vội vào bờ. Sau ít bước nhanh cả hai đều đi vừa phải, nhẹ nhàng.


 Hàng bắp đổ bóng xám xịt hai bên đường trong không khí oi nồng mùi đất nóng. Hết cánh đồng bắp, tiếp đến màu xanh đậm của cánh đồng bông. Một lớp bụi mỏng đang phủ lên màu xanh đậm của lá bông. Hột bông đã nhú. Người ta trồng loại bông đốm này nơi vùng đất thấp vì còn giữ được nước. Ít khi thấy nó ở vùng đất cao. Những cây bông đang cầm cự với ánh nắng hạn. Xa tận chân trời, chỉ thấy duy nhất một lớp màu vàng đọng lại. Con đường đất bụi uốn khúc nhấp nhô đi mãi về phía trước. Rặng liễu theo con suối chảy về huớng tây, những vùng đất phía tây bắc thì lại bỏ hoang chỉ còn vài bụi cọ mọc rải rác. Mùi đất nóng tràn đầy trong không khí khô khan, làm mũi róm lại, nước mắt người ta phải ứa ra để bảo vệ con ngươi.  

Thầy Casy lên tiếng trước,

-Con thấy bắp chịu hạn giỏi không, chắc cũng được mùa thôi.

-Bao năm rồi thầy ạ--Joad tiếp

-Con nhớ, bao năm rồi nhà con mong một vụ được mùa, nhưng chẳng bao giờ có cả. ÔNG nội con nói rằng khi khai hoang vùng này, gia đình chỉ có năm vụ được mùa thôi.

Con đường tiếp tục thấp dần xuống một ngọn đồi nhỏ rồi tiếp tục leo lên một ngọn đồi nối mãi phía trước.

Thầy Casy coi bộ bồn chồn:

-Nhà của Già Tom chỉ còn non một dặm nữa thôi, có thể chúng ta qua ngọn đồi thứ ba nữa là đến.

-Đúng rồi thầy- Joad đồng ý

-Có người đã chiếm cái nhà đó rồi, trong đó có Pa còn một phần.

-Pa con đã chiếm nó?

-Đúng đó thầy, nhà đó cách đây một dặm rưỡi. Ngày xưa thì gia đình có ở đó và đã đi. Chính ra ÔNG Nội, Pa và anh Noah con đều muốn sở hữu hết căn nhà. Nhưng chỉ có một nửa để nuôi mười hai con ngựa và hai con cừu thôi. Ba người có trở lại để mong sở hữu hết căn nhà, nhưng nửa kia của cha con Wink Manley làm chủ. Pa, ÔNG NỘI đau lắm, nhưng sau này hai người cùng Wink uống rượu cười nói vui vẻ với nhau .Ông Wink cho rằng phần nhà ông đã bề bộn lắm rồi nếu gia đình con nuôi chăn nuôi thêm thì cái nhà trở thành cái trại chăn nuôi. Ông Wink coi vậy mà tốt nhất là khi uống rượu. Sau đó họ trở thành bạn nhau, có dịp là gặp nhau uống rượu.

-Già Tom là người tốt, thầy Casy nhắc lại. 

Họ bước chậm lại khi đi xuống vùng trũng thấp nhất của con dốc, chứa đầy bụi đất, xong chậm chạp đi lên. Thầy Casy lấy tay áo chùi mồ hôi trên trán xong đội lại cái mũ chóp bằng.

-Đúng, ông lập lại

-Tom thật là một người tốt. Ông tuy không theo đạo nhưng là một người rất tốt. Trong buổi lễ ta thấy có thánh thần trong ông dù ít ỏi nhưng ta thấy ông nhảy được mười-mười hai bộ,. Ta nói với con rằng khi Già Tom có Thánh Thần hộ trì rồi thì cả nhà phải làm thật nhanh để khỏi mất cơ hội. Chớ nên bỏ lỡ cơ hội nhe con.



  
Hai người đã đến đỉnh một con dốc. Nơi này con đường đổ xuống một con mương cũ, thô tháp và tả tơi.  Hai bên còn mang dấu vết những dòng nước chảy. Có vài phiến đá nơi người ta lót đi qua.

Giờ chân trần của Joad đang bước khập khểnh.

-Thầy nói về Pa, có thể thầy chưa bao giờ thấy Bác John lúc bác ấy được vào Dinh Polk rửa tội. Tại sao bác nhảy cởn lên. Cao qua khỏi cái bụi feeny to bằng bụi thông. Bác ấy cứ nhảy qua rồi lui lại nhảy tiếp. Rồi Pa bắt gặp Bác, Pa cho là Giêsu đã nhập vào rồi. Pa con lấy một bụi feeny to bằng Bác, Pa kêu ré lên đánh tan bụi feeny đó và làm gãy luôn một chân Bác. Thế là hết Thánh Thần trong Pa. Vị thầy đạo muốn cầu nguyện lại nhưng Pa từ chối Chúa, ông chỉ muốn giúp làm sao cho tim ông đầy lại bằng cách có một bác sĩ. Các ngừơi đó không là bác sĩ mà lại nha sĩ đang đi du hành đó đây, người thầy giảng đạo kia lại giúp cho tim Pa bằng cách cho lời cầu nguyện.

  Cả hai bước khó nhọc ngược lên triền bên kia con mương nước cũ. Mặt trời giờ đã xế, nhưng không khí vẫn còn oi nồng tuy các tia nắng gay gắt cũng yếu bớt đi. Các chặng dây kẽm gai vẫn còn bên cạnh đường. Phía tay phải , qua khỏi hàng kẽm gai là cánh đồng bông vải, hai bên đều là những cây bông xanh đậm nhưng lá lại bị phủ một lớp đất bụi.

Joad chỉ vào hàng rào

ây là hàng rào nhà con. Thật tâm nhà con chẳng cần hàng rào ở đây, nhưng gia đình có kẽm gai nên Pa làm luôn. Có lần Bác John đem tới một lần sáu cuốn kẽm gai cho Pa để đổi con heo con, sẵn dịp lại rào luôn. Mọi người chẳng bao giờ biết Bác lấy kẽm gai ở đâu?

  Họ lại chầm chậm lên dốc, lê chân trong lớp bụi dày.  Hai người đều cảm nhận được lớp bụi ngập tràn bàn chân. Đôi mắt Joad ngập sâu trong hồi ức. Có lúc anh muốn cười phá lên một mình.

-Bác John này như một thằng ngốc không bằng ...anh nhớ lại ...chuyện đã đổi con heo con …

anh chắc lưỡi, tiếp tục bước đi.

Jim Casy coi bộ nôn nóng khi câu chuyện ngưng ngang nửa chừng. Ông chờ anh ta khá lâu:

-Ồ vậy ông Bác con làm gì với con heo con đó ?

cuối cùng ông phải đưa ra câu hỏi, giọng hơi bực mình.
                                                                                                MA'  Joad

-Hả? Ồ, Vâng , ông Bác đó giết con heo ngay tại đó, xong nhờ MÁ nhóm giúp cái bếp. Bác chặt con heo ra từng miếng xong bỏ vào  chảo. Sườn và chân Bác đặt vào lò., Ông
 bác ăn sườn cho đến khi đùi heo trong lò chín. Rồi Ông xé giò ra, cắt từng khúc lùa hết vào miệng . Bầy nhỏ bu quanh thèm chảy nước miếng,  Ông cho vài chút nhưng không mời Pa miếng nào. Khi no nê xong,thì tìm chỗ ngủ. Khi Ông ngủ, tụi nhỏ và Pa mới ăn hết cái đùi heo. Ồi chao, sáng lại khi thức dậy Ông quăng một đùi heo nữa vào lò. Pa nói 'này anh John anh dám ăn hết con heo luôn à ? và Bác  nói ' ta ăn hết đây Tom, nhưng ta sợ thịt hư rồi. Có thể em nên lấy một ít rồi trả lại cho anh hai cuốn thép gai kia. Ồ thấy đó, Pa đâu có ngu. Ông bắt Bác đó phải tự mình  ăn hết con heo xấu số kia , nhưng rồi ông phải lái xe về.  Kết quả chỉ ăn nửa con heo thôi. Pa nói ngay' sao trong nhà không ướp muối nó đi? Nhưng không để ông ấy biết, bác đóc chỉ biết ăn cả con thôi , ăn không hết thì khôg dám đèo theo, chỉ có Pa là biết muối phần còn lại  .

Thầy Casy nghe xong mới so sánh

-Khi ta rao giảng Thánh Thần ta có giảng bài dạy như thế với con, nhưng sau này ta không dạy thế nữa. Con có biế t bác con làm như thế vì gì không ?

-Con chẳng biết nữa- Joad thật lòng trả lời

-Bác đó nói đói thịt heo làm con cũng thèm khi nghĩ về nó. Bốn năm trong tù con chỉ có bốn lát thit heo nướng, một miếng dành cho một mùa Giáng Sinh đó thầy ơi.

Thầy Casy biểu lộ sự đồng tình:

-có lẽ  Ba Tom sẽ hạ một con bò đãi đứa con hoang phí như trong Thánh Kinh  (the prodigal in Scripture) không chừng?

  Joad bỗng cười chẳng chút gì tin vào lời ông thầy đạo.

-Thầy không hiểu Pa đâu. Nếu ông giết một con gà không phải con gà kêu than mà chính ông kêu than quang quác. Pa chưa bao giờ biết gì trong Thánh Kinh dạy. Ba con chỉ biết nuôi heo để dành cho Lễ Giáng Sinh thôi. Bởi vậy chú heo nào bị chết trong tháng Chín là những con heo bệnh thì không ai ăn. Chỉ có bác John muốn ăn thịt heo thì cứ ăn  vì bác đó đổi được con heo trong tay.

  Cả hai vừa nói chuyện vừa lần theo con đường uốn cong lên đến đỉnh ngọn đồi.  Joad vừa thấy nhà dưới kia, anh  ngừng lại:

-Khác nhiều quá --anh ta ngạc nhiên… có điều gì xảy ra chăng ? sao  trông vắng ngắt ? chẳng có ai dưới kia cả ?.

  Hai người cùng đứng yên nhìn chằm chặp xuống mấy mái nhà nhỏ nhỏ nằm thấp dưới xa.


============= 

ĐHL trích dịch từ  Chùm Nho Thịnh NỘ (The Grapes of Wrath) của John E. Steinbeck 
Chương 4

No comments:

Post a Comment