NGÀY 21 THÁNG 5, 1975 TÙ BINH TỪ BA LÒNG VỀ THÀNH LẬP TRẠI TÙ CẢI TẠO CÓ TÊN LÀ ĐOÀN 74 (trong hình lục giác có đánh số 1-2-3-4-5)
Lời mở đầu:
Tuyến phòng thủ sông Mỹ Chánh bị vỡ và tôi cùng 16 người khác của TĐ 105 ĐPQ Tỉnh QT bị bắt làm tù binh trưa ngày 23/3/1975 và ngày 24/3/1975 đã bị đưa ra Đông Hà thuộc miền CS miền bắc lúc Huế chưa thất thủ. Sau đó đoàn tù binh chúng tôi bị đưa lên Ba Lòng cho đến lúc SG sụp đổ 30/4/1975.
Cho đến Ngày 21/5/1975 đoàn tù binh chúng tôi từ Ba Lòng được đưa ngược về lại Ái Tử để thành lập 5 trại TÙ CÓ TÊN LÀ ĐOÀN 74 do quân đội CSVN quản lý.(hình trên có dấu số màu đỏ trong hình Lục Giác)
Tiếp tục xây trại, một ngày nhờ được phân công đi lấy kẽm gai tại căn cứ Ái Tử cũ, người viết mới có dịp ghé vào Chùa Sắc Tứ thăm lại các Thầy và mấy chú ra sao?
Khi thấy đoàn tù thấp thoáng bới móc ngoài căn cứ Ái Tử cũ, có ai đó thấy tôi và có người nhắn tin vào gia đình ba mẹ tôi đang ở Mỹ Tho cho tin tức là tôi 'CÒN SỐNG"...Thế là nhà tôi ở Mỹ Tho 'DẸP BÀN THỜ ' của tôi xuống? không còn thờ nữa.( Trước đó vài tháng thì nghe ai trong đơn vị tôi chạy vào thấu trong nam và đoan quyết tin tôi bị chết ở Lương Mai- Phong Điền ngày 23/3/1975 nên ba mẹ tôi đều đặt tôi lên bàn thờ tại Mỹ Tho)
Thời gian nấn ná đi lấy kẽm gai tôi lén chùa, lúc đó cảnh chùa rất hoang tàn đổ nát. Cũng nhờ dịp này người kể mới có dịp gặp lại thầy Thích Ân Cần và cả Thầy TỈnh giáo Hội là Thích Chánh Trực đang cùng trú trì tại Tổ Đình.
Các chú ngang tuổi tôi xưa không còn gặp, chỉ có các chú nhỏ tuổi hơn có thể từ mấy làng mới vào tu sau tháng 4/1975 mà thôi.
ĐHL
***
NHỚ VỀ CHÙA SẮC TỨ
HỒI KÝ
CHÙA SẮC TỨ CUỐI NĂM 1975
Những ngày tàn cuộc chiến, hoàn cảnh đẩy đưa tôi về lại thăm chùa Sắc Tứ. Một ngày khoảng cuối năm 1975 khi tôi được phân công đi lấy kẽm gai về xây dựng trại tù gần thôn Xuân Khê một thôn nằm về hướng núi cách chùa khoảng vài ba cây số.
Quang cảnh đìu hiu của chùa Sắc Tứ lúc người dân chưa hồi cư về mấy làng quanh vùng Ái Tử chợt làm lòng tôi se lại. Mái tượng Quán Thế Âm đổ nát và hồ sen xơ xác trước chùa hoà trong không gian vắng lặng làm tôi có một cảm giác bơ vơ, xa lạ như đang ở chốn không người.
Mặt tiền của chùa trước vụ 1972 đang xây nay trước mắt tôi cũng tiêu điều đổ nát. Sau hậu liêu của chùa cũng còn vững làm chỗ tá túc cho những người ở lại. Tượng Phật chánh điện cũng không còn, đang tạm thay bằng tượng PHẬT đứng bằng đồng nho nhỏ. Hồi trước 1972 xây chưa xong thì biến cố 72 phải chạy để lại chùa hứng chịu cảnh pháo kích bom bay đạn lạc . Cho đến hôm nay cảnh thầy trò trở về sau 1975 như hôm nay trong cảnh đổ nát vẫn lai hoàn đổ nát mà thôi. Đạo hữu tứ tán mỗi người một nơi. Thành phố QT bên kia bờ sông, một nơi từng cúng dường cho chùa nay chỉ còn là đống gạch vụn không người. Mà người xưa của thành phố thân yêu của Chùa ngày đó chắc tản mác khắp bốn phuơng trời như bầy chim tan bầy vỡ tổ đó thôi.
Tôi cất tiếng tìm Thầy. Một lúc sau mới có tiếng người vài ba o bên thôn Ái tử qua làm công quả nói thầy "đang lao động", còn mấy chú thì cũng đi lao động ngoài xa.
Tôi vội vòng ra sau chùa thì gặp được thấy Thích Chánh Trực đang cặm cụi làm cỏ sắn trước Chùa. Gặp tôi, Thầy chống cuốc nghỉ mệt. Tôi thấy rõ những giọt mồ hôi nhễ nhại trên vầng trán cao của Thầy. Cái áo lam của thầy bạc màu theo mồ hôi muối và cơn nắng cuối hạ. Hai thầy trò đứng bên vồng sắn trò chuyện. Thầy vừa chống cuốc vừa nói chuyện với tôi. Thầy hỏi han về tình hình của tôi. Tôi thú thiệt với thầy hoàn cảnh và nhờ đi lấy kẽm gai mới tạt vô thăm chùa một lát chứ không lâu được. Thầy chẳng ái ngại chi do số tù binh mới về lập trại, Đoàn 74 hàng ngày vẫn xôn xao đi tìm kiếm vật dụng quanh căn cứ Ái Tử sau chiến tranh. Ngay cả cái cổng Sư Đoàn 3 BB chênh chếch sau lưng chùa nhóm tù cũng đi vô lấy phế liệu về trại. Người kể còn nhớ trong câu chuyện, thầy có phân biệt một đoạn về duy linh là gì? chỉ ngần ấy thôi thầy không nói gì sâu thêm.
Chợt thầy Thích Chánh Trực nhắc đến mệ ngoại tôi:
"O Bếp mô rồi con."
"Dạ, mệ con vô đi di dân vô Bình Tuy với gia đình rồi thầy nờ."
Các thầy trú trì từ chùa Tỉnh Hội cho đến Sắc Tứ hay kêu mệ ngoại tôi là o Bếp. Thầy mừng do nghe tin ngoại tôi vẫn còn trong nam. Mệ ngoại tôi tức là bà Bếp Thỏn người làng Hạnh Hoa làm dâu làng Nại Cửu, là bà vãi tu ở chùa này đã lâu. Chùa tỉnh Hội xưa có bà Hai (tôi nhớ bà nói giọng QUẢNG ) nấu nướng cho Thầy. Bên này, Sắc Tứ thì có ngoại tôi. Cả hai bà đều nấu chay rất khéo và ngon. Quý thầy ai cũng khen, đi mô cũng nhắc. Mệ tôi vắng chùa là chùa nhớ. Các thầy các điệu các chú đều nhớ.
Chiến tranh tao loạn tứ tán mỗi người một nơi. Hai mái liêu tả hữu hai bên chùa là những hình ảnh và kỷ niệm cho tôi, nhiều lắm với những lần từ bên thành phố QT qua đây. Những ngày hè nghỉ học tôi hay qua thăm ngoại tôi bên chùa này. Những đám tang của người thân trong gia đình ngoại tôi cũng được chùa cho táng ở đây . Những lần lái honda qua đây chở mệ tôi về nhà 'có việc' hay cả những lúc qua viếng rảnh rang qua thăm chùa thăm mệ hay thắp nhang cho mộ phần người thân.
Chợt như nhớ ra Thầy vội đưa tôi vô trong liêu nói dù sao cũng phải nán lại ăn cơm với thầy do Thầy Thích Ân Cần cùng mấy chú đi lao động sau chùa không xa lắm chắc là sắp về. Một lúc sau thầy Ân Cần cũng đi làm về cùng mấy chú mới tu còn nhỏ tuổi tôi không biết được. Ngang tuổi tôi có mấy chú Tăng chú Đăng lưu lạc phương nào tôi cũng không còn biết.(Sau này ra tù tôi nghe tin chú Đăng bị chết trên Đại Lộ Kinh Hoàng còn chú Tăng thì mất tích đâu không còn ai biết)
các chú đệ tử thầy Thích Ân Cần thời ngoại tôi tu tại chùa ,1967-
các chú này là sư đệ của các chú Tăng - Đăng...phần nhiều người làng Trà Trì và Trà Lộc (Hải Lăng QT)
Khoảng thời gian 1967- 1968 căn cứ Mỹ đóng quanh Chùa, có vài quân nhân Hoa Kỳ hay qua thăm cảnh chùa và chụp hình ảnh này. Những quân nhân này sau này về lại Mỹ và họ đưa lên mạng Internet hình ảnh Chiến Tranh VN trong đó có hình này .
Thầy Ân Cần trước tiên là hỏi tin về ngoại tôi. Mệ tôi hoàn cảnh xa chùa từ 1972 làm chùa nhớ chùa thương. Ngoài kia bên góc phải chùa, cái giếng nước hình vuông nho nhỏ còn đó. Bụi tre la ngà xơ xác đìu hiu phất phơ theo cơn gió và cơn nắng ban trưa. Tôi mường tượng hình ảnh ngoại tôi tháng ngày trước lom khom ra giếng rửa rau để vô nấu cơm cho thầy. Hồ sen năm đó loáng thoáng mấy cánh sen hồng, mấy con cá rô phi lượn lờ cùng bức tượng Quan Âm mới khánh thành. Thòi này căn cứ Mỹ đóng quanh Chùa. Trước chùa là phi trường Ái Tử của Quân Đội Mỹ , thỉnh thoảng có vài người lính Mỹ vào thăm chùa , thăm tượng Quan Âm xong vào chùa chiêm bái tượng phật trong chánh điện. Người Mỹ có khi còn giúp đỡ chùa một mớ ván ép cho chùa chi dụng. Cảnh chùa yên tĩnh cũng là nơi cho một số người Mỹ vào đây tĩnh dưỡng tâm hồn sau những lúc căng thẳng vì chiến tranh bên ngoài. Ngang đây người viết còn nhớ lại một dịp may là nhờ Việt Nam Quốc Tự không đồng ý cho quân đội Mỹ san bằng Chùa với giá đền bù Một Triệu đô La vì lý do an ninh cho căn cứ to lớn này. Cũng nhờ uy linh của các thiền sư trụ trì còn gia độ xui khiến cho vậy, nếu Việt Nam Quốc Tự tại Sài GÒn thời đó đồng ý thì xem như di tích quý báu của Sắc Tự Tịnh Quang Tự đến nay đâu còn ?
Giờ thì...mới đó mới đây chỉ còn là những đổi thay cùng thiếu vắng.
Một chút chi hai thầy bảo tôi ăn cơm với hai thầy để về lại trại. Từ chối cũng không đành, tôi phải nán lại ít lâu nữa. Om cơm nho nhỏ khoảng 2 lon gạo vài củ khoai tím ruột hấp lên trên. Tôi chỉ giành khoai ăn để nhường cơm lại cho 2 thầy. Thiệt tình đối với tôi vào lúc này ăn mấy củ khoai tím ruột trồng đất cát của chùa là ngon lắm rồi. Tôi không quên được hình ảnh 3 Thầy trò cứ nhường qua nhường lại. Chén nước tương giờ này cũng loãng, miếng rau luộc cũng không đậm đà; giá như còn ngoại tôi ở lại với chùa, tôi nghĩ thầm trong bụng. ..Ngoại xa quê, mái liêu chùa trở nên trống vắng, cảnh chùa buồn làm lòng tôi thấy buồn hơn. Tôi làm sao quên đươc "chú Hợi" con heo đen chùa nuôi để lấy nguồn phân bón. Cái nanh của "chú Hợi" già tuổi quá cho đến lúc cả hai dài và cong vuốt lên. Tôi còn nhớ, ngoại tôi khoe rằng " chú Hợi cũng được Thầy cho quy y rồi".
==============
PHỤ GHI theo báo Phật Giáo Giác Ngộ ngày 12/4/2024
VỀ LỄ GIỖ 29 NĂM HÒA THƯỢNG THÍCH CHÁNH TRỰC VIÊN TỊCH TẠI TỔ ĐÌNH KIM TIÊN VÀ CHÙA PHẬT HỌC QUẢNG TRỊ 4 THÁNG 3 GIÁP THÌN (12-4-2-24)
Sáng nay, 12-4 (4-3-Giáp Thìn), Lễ tưởng niệm 29 năm ngày Trưởng lão Hòa thượng Thích
Chánh Trực viên tịch đã được trang nghiêm tổ chức tại tổ đình Kim Tiên (Huế) và chùa Phật
Học Quảng Trị với sự tham dự của chư tôn đức Tăng Ni cùng đông đảo Phật tử. Tại tổ đình Kim Tiên (P.Trường An, TP.Huế), hiện diện dâng hương tưởng niệm có Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Thanh, Ủy viên Thường trực Hội đồng Chứng minh; Trưởng lão Hòa thượng Thích Lưu Hòa, Thành viên Hội đồng Chứng minh; chư tôn đức giáo phẩm Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế; Hòa thượng Thích Khế Chơn, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế cùng chư Tăng Ni các tổ đình, tự viện ở cố đô Huế đã đến đảnh lễ tưởng niệm, tri ân.
Trưởng lão Hòa thượng Thích Chánh Trực thế danh Hoàng Văn Trung, pháp danh Tâm Trung, pháp tự Chánh Trực, thuộc dòng thiền Lâm Tế đời thứ 43. Ngài sinh năm Tân Mùi (1931) tại làng Trà Trì, X.Hải Xuân, H.Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
Sinh thời, ngài từng đảm nhiệm các chức vụ: Phó Hội trưởng Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên (1963), Chánh Đại diện Phật giáo tỉnh Quảng Trị (1968), Thành viên Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam (1980), Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN (1981), Phó Trưởng ban Trị sự tỉnh Bình Trị Thiên (1982), Trưởng ban Trị sự sáng lập GHPGVN tỉnh Quảng Trị (1989).
TẠI CHÙA PHẬT HỌC QUẢNG TRỊ
============================================
TIẾP THEO......Bữa cơm tuy đạm bạc nhưng ba thầy trò trở nên tương đắc. Hai thầy cũng cho biết bên hợp tác xã cũng bán cho chùa mỗi tháng mỗi thầy 8 ký gạo "tối thiết".Ba thầy trò vừa ăn vừa kể lại chuyện mấy năm trước khi Thành Phố vẫn còn .. .Kể về cái chợ Quảng trị ngày xưa, chùa hay qua lại bán vài ba thứ do chùa trồng trọt như đậu mè khoai sắn chẳng có gì quý để mua vài ba món cần dùng. Ngày đó khách thập phương bên Tỉnh năng qua lại chùa viếng cảnh và lễ phật.Ai lễ xong đều ra hóng mát ngoài hồ sen và chụp ảnh dưới chân tượng đài Quán Thế Âm. Đạo Hữu bên Tỉnh tôi nhớ có thương gia Nguyễn Xuyến năng cúng dường giúp đỡ cho Chùa nhiều lắm. Mệ Xuyến cũng rất mến bà ngoại tôi. Ai vô chùa cũng hay hỏi thăm O Bếp mô rồi...Hôm nay cũng vậy thầy Chánh Trực hay Thầy Ân Cần đầu tiên khi gặp tôi là hỏi thăm "O Bếp mô rồi?"
Nếu không có chuyện 1972 và 1975 thì giờ này thầy Chánh Trực còn trụ trì bên chùa Tỉnh Hội Quảng Tri chứ đâu ngồi đây ? Hoàn cảnh đổi thay đố ai biết được. Thầy Chánh Trực trước là đệ tử tại chùa Kim Tiên và sau này mệ ngoại tôi cũng được thọ giới đốt nhang lãnh Y Bát tại mùa kiết hạ tại chùa Kim Tiên nên thấy Chánh Trực mới năng hỏi o Bếp . Thầy Ân Cần thì không lạ gì ngoại tôi là bà vải ngày tháng bếp núc bên hữu liêu của chùa . Giờ (1975) mệ tôi ở tận trong nam tình hình ra sao ba thầy trò làm sao biết được Ba thầy trò vương vấn chưa được bao lâu thì tôi phải giã từ để về lại trại. Từ đó tôi biền biệt ra Bắc vô Nam tôi không còn có dịp về lại chùa nữa.
***
Không ngờ năm 1991 người kể chuyện từ Bình Tuy ra đến Đông Hà do có công chuyện. Trên chuyến xe vô nam tôi lại có cơ duyên vô lại thăm chùa. Tôi không còn gặp được thầy Thích Chánh Trực nữa. Thầy Thích Ân Cần đang đau. Thầy chống gậy dẫn tôi ra hậu liêu chỉ vào cái tháp của thầy Thích Nhật Lệ thầy bảo tôi:
" con coi ngó rứa mà Thầy Nhật Lệ lại đi trước Ôn tề"
Thầy Nhật Lệ viên tịch trong nam. Lúc mệ ngoại tôi mất ở xuân sơn Bà Rịa năm 1984 thầy Nhật Lệ từ chùa Hải Quang Sài Gòn có về chủ lễ cho ngoại tôi tại đó.
Thầy lại chỉ vào bảo tháp xây sẵn cho thầy, "mai mốt Ôn viên tịch cũng đưa vào trong ni". Tuổi đời chồng chất, thầy trụ trì tại đây lúc tôi còn bé con năng qua lại chùa.
Hồi đó mỗi lần qua chùa thăm ngoại, thăm chùa, nên ai cũng nhớ mặt tôi. Tôi nhớ thầy còn khỏe mạnh. Thời gian phôi pha, vật đổi sao dời. Dáng thầy run run chống gậy chỉ vào bảo tháp sinh phần của thầy, tôi thấy dòng thời gian sao trôi chóng vếnh quá thôi. thoắt đó thoắt đây kẻ ở người đi. Thầy cũng sắp đi, bình thản trước cảnh tử sinh trong cõi ta bà. Trong nam ngoại tôi cũng không còn nữa. Tôi mường tượng hương hồn ngoại tôi cũng theo gió xuôi trung về lại với chùa vì ngoại tôi tu đây cũng hơn mười mấy năm rồi.
Ngàn cây ngọn cỏ cũng còn xao xuyến. Thầy ở lại con phải vô nam bước chân viễn khách của con phải còn đi xa hơn nữa.
Mấy hôm đó thầy Ân Cần hình như bệnh nhiều. Thầy gượng gạo ngồi ăn cơm với tôi cũng cơm hẫm nước tương chẳng chút đậm đà. Tôi ái ngại nghĩ bụng làm sao thầy nuốt cho vô trong cơn bệnh hoạn này. Bữa cơm thầy buông đũa sớm vì thầy phải về nghỉ mệt.
Câu nói của Thầy như một lời trăn trối với tôi trước khi tôi từ biệt thầy ra lộ đón xe vô lại phương Nam:
"Thầy nhờ con nhắn nhủ đạo hữu phương xa,nhất là ai có gửi mộ phần người thân tại chùa, đi làm ăn mô năng nhớ về chùa nghe con?"
Thầy còn gửi cho tôi bức ảnh của thầy nhờ gữi cho dì Võ thị Liễu tôi. Dì tôi hồi còn buôn bán ở chợ Tỉnh Quảng trị rất thương về chùa.
Vào nam rồi ít lâu sau thì tôi nghe tin thầy Thích Ân Cần viên tịch.
Thời gian tuy phôi pha, hình bóng những người xưa cùng nhau về miền quá khứ tuy vậy tôi viết ra đây những dòng ký ức chân thật từ đáy lòng.
Nhất là lời hứa với người xưa, tôi không thể nào để "gió thoảng mây bay" rằng "những ai đi xa dù ở phương nào nên nhớ về chùa nghe con."
Đó là tình thương của thầy để lại cho Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang Tự cho những ai đang tu hành tại đó trước khi thầy về với Phật.
" con coi ngó rứa mà Thầy Nhật Lệ lại đi trước Ôn tề"
Thầy Nhật Lệ viên tịch trong nam. Lúc mệ ngoại tôi mất ở xuân sơn Bà Rịa năm 1984 thầy Nhật Lệ từ chùa Hải Quang Sài Gòn có về chủ lễ cho ngoại tôi tại đó.
Thầy lại chỉ vào bảo tháp xây sẵn cho thầy, "mai mốt Ôn viên tịch cũng đưa vào trong ni". Tuổi đời chồng chất, thầy trụ trì tại đây lúc tôi còn bé con năng qua lại chùa.
Hồi đó mỗi lần qua chùa thăm ngoại, thăm chùa, nên ai cũng nhớ mặt tôi. Tôi nhớ thầy còn khỏe mạnh. Thời gian phôi pha, vật đổi sao dời. Dáng thầy run run chống gậy chỉ vào bảo tháp sinh phần của thầy, tôi thấy dòng thời gian sao trôi chóng vếnh quá thôi. thoắt đó thoắt đây kẻ ở người đi. Thầy cũng sắp đi, bình thản trước cảnh tử sinh trong cõi ta bà. Trong nam ngoại tôi cũng không còn nữa. Tôi mường tượng hương hồn ngoại tôi cũng theo gió xuôi trung về lại với chùa vì ngoại tôi tu đây cũng hơn mười mấy năm rồi.
Ngàn cây ngọn cỏ cũng còn xao xuyến. Thầy ở lại con phải vô nam bước chân viễn khách của con phải còn đi xa hơn nữa.
Mấy hôm đó thầy Ân Cần hình như bệnh nhiều. Thầy gượng gạo ngồi ăn cơm với tôi cũng cơm hẫm nước tương chẳng chút đậm đà. Tôi ái ngại nghĩ bụng làm sao thầy nuốt cho vô trong cơn bệnh hoạn này. Bữa cơm thầy buông đũa sớm vì thầy phải về nghỉ mệt.
Câu nói của Thầy như một lời trăn trối với tôi trước khi tôi từ biệt thầy ra lộ đón xe vô lại phương Nam:
"Thầy nhờ con nhắn nhủ đạo hữu phương xa,nhất là ai có gửi mộ phần người thân tại chùa, đi làm ăn mô năng nhớ về chùa nghe con?"
Thầy còn gửi cho tôi bức ảnh của thầy nhờ gữi cho dì Võ thị Liễu tôi. Dì tôi hồi còn buôn bán ở chợ Tỉnh Quảng trị rất thương về chùa.
Vào nam rồi ít lâu sau thì tôi nghe tin thầy Thích Ân Cần viên tịch.
Thời gian tuy phôi pha, hình bóng những người xưa cùng nhau về miền quá khứ tuy vậy tôi viết ra đây những dòng ký ức chân thật từ đáy lòng.
Nhất là lời hứa với người xưa, tôi không thể nào để "gió thoảng mây bay" rằng "những ai đi xa dù ở phương nào nên nhớ về chùa nghe con."
Đó là tình thương của thầy để lại cho Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang Tự cho những ai đang tu hành tại đó trước khi thầy về với Phật.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
ĐHL ngày cuối năm 2010
edit 3/12/2024
ĐHL ngày cuối năm 2010
edit 3/12/2024
No comments:
Post a Comment