(trích trong tập: Quê Ngoại)
Theo
“Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim thì…
“Năm tân sửu (1301) thượng hoàng
đi sang Chiêm Thành xem phong cảnh, có ước gả Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm
là Chế Mân. Được ít lâu, Chế Mân cho người đem vàng bạc và các sản vật sang cống
và xin cưới. Triều thần có nhiều người không thuận, Chế Mân lại xin dâng châu Ô
và châu Rí làm lễ cưới, bấy giờ Anh Tông mới quyết ý thuận gả. Đến tháng 6 năm
bính ngọ (1306), cho công chúa về Chiêm Thành.
“Sang
năm sau (1307) vua Anh Tông thu nhận hai châu Ô và Rí, đổi tên là Thuận châu và
Hóa châu, rồi sai quan là Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt quan cai trị.
“Huyền
Trân công chúa lấy Chế Mân chưa được một năm thì Chế Mân mất, mà theo tục Chiêm
Thành, hễ khi vua đã chết, thì các hậu phải hỏa thiêu chết theo.
“Anh tông được
tin ấy, sai Trần khắc Chung giả mượn tiếng vào thăm để tìm kế đưa công chúa về.
“
(VNSL - TTk - Q. 1 trang 167)
Theo chính
sử, việc gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành, lúc ban đầu, không thấy nói
tới việc dâng đất hai Châu Ô và Rí. Vì vậy vua Chiêm chỉ cho mang vàng bạc và sản
vật làm sính lễ mà thôi. Mãi đến khi “triều thần có người không thuận”, nên Anh
Tông cũng không thuận chăng. Vì vậy, “Chế Mân lại xin dâng đất châu Ô và châu Rí
làm lễ cưới, bấy giờ Anh Tông mới quyết định thuận gả”. Do vậy, nhìn chung vấn đề,
có hai châu Ô và Rí mới gả chông chúa. Còn như không có đất, chắc gì đã có việc
hôn nhân?!
Đâu có riêng gì "Triều thần có
người không thuận" như Trần Trọng Kim viết mà trong dân gian cũng có nhiều
người thương trách:
"Tiếc thay cây quế giữa rừng,
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo.
Hay:
Tiếc thay hột gạo trắng ngần
Đã vo nước đục lại vần lửa rơm
Cây quế ám
chỉ Huyền Trân công chúa, giữa rừng là giữa nước Chiêm Thành còn mọi rợ. Dĩ nhiên,
thằng Mán, thằng Mường là mấy ông vua Chiêm.
Hột gạo trắng
ngần cũng là ý nói công chúa Huyền Trân. Vo nước đục là gả ho Chế Mân, sau lại
“đi lạc” với Trần Khắc Chung là coi như lửa rơm; hay mối tình của hai người, -
công chúa và Trần Khắc Chung - cũng chỉ là ngọn lửa rơm?
Nước ta, ở
miền quê, thường khó kiếm củi để đốt, nấu nướng. Nông dân tận dụng rơm để làm
chất đốt. Rơm là phần ngọn của cây lúa, sau khi gặt về, đập lấy hột xong, người
ta chất rơm thành đống cao, thường gọi là “Cây Rơm”. Người ta rút rơm để đưa vào bếp đốt dần. Lửa
rơm cháy mạnh, nhưng mau tàn. Người nấu lửa rơm phải canh chừng, hẽ rơm trong bếp
cháy tàn thì bồi tiếp thêm rơm vào cho ngọn lửa được liên tục. Khi nấu cơm, muốn
cơm mau sôi, cho rơm vào nhiều. lửa cháy to. Khi cơm đã cạn, cho rơm vào bếp ít
lại để cơm được chín. Nếu tiếp rơm vào nhiều, lửa cháy to, cơm bị cháy, khê nếu
để lửa tàn, không còn hơi nóng thì cơm sống. So ra, nấu rơm khó hơn nấu củi.
Đất châu Ô
và Rí, sau đổi thành Thuận châu và Hóa châu. Thuận châu là tên ngày xưa, bây giờ
gọi là gì? Phải chăng đó là đất thuộc tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị ngày nay? Một
thời, Huế được gọi là Thuận Hóa, bao gồm cả châu Thuận và châu Hóa, hay chỉ đó
là một cách gọi, Huế tượng trưng cho cả hai châu nầy?
Có lẽ ngày
trước, hình như việc mấy cô ra đi theo chồng không mấy khi vui?
Vu qui là
ngày vui? Trong thực tế, không ít cảnh “Nước mắt ngày vu qui!” Tại sao vậy? Rõ
lắm! Trước hết, vì người con gái rất thương mẹ nên khi lìa nhà theo chồng, người
con gái không vui là chuyện rất thường:
“Cậy em em ở lại nhà,
Vườn dâu em đốn mẹ già
em thương.
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường
xót xa…”
(Lỡ Bước Sang Ngang - Nguyễn Bính)
Chỉ “một bước
đi” mà những “trăm đường xót xa” thì sự xót xa đó phải là lớn lắm. Ca dao cũng
có những câu tương tự như vậy: “
Ngày nay, tôi
thấy con gái khi lấy chồng thường hay cười hơn khóc. Vậy thì người đời nay hạnh
phúc hơn người xưa?
Tuy nhiên,
với trường hợp người chị của Nguyễn Bính thì không chỉ thương mẹ. Nếu chỉ vì thương
mẹ thì sao gọi là “Lỡ Bước…” Có thể người chị của thi sĩ đã có một người tình,
chị ông phải bỏ người tình, phụ tình mà đi lấy chồng.
Huyền Trân
công chúa cũng vậy. Công chúa cũng có một người tình, nhưng vì lời hứa của vua
cha, vì sự nghiệp của nhà Trần, vì nước nên phải qua làm dâu xứ Hời để mở mang
bờ cõi. Cảm thông tình cảnh đó, vua Tự Đức viết lời cho bài ca
Nước non ngàn dặm ra đi
Cái tình chi,
Mượn màu son phấn
Đền nợ Ô-Ly
Tiếc thay vì đương độ xuân
thì (1)
Có người bảo
rằng Huế là tiếng gọi trại của Hóa. Đất kinh đô, thường kỵ húy, tức là tránh gọi
thẳng tên các ông vua, bà chúa, phải gọi trại đi để khỏi mắc tôi “khi quân” nên
Hóa thành Huế. Cũng có người cho rằng không phải như thế.
Thật ra, ở
Huế, nói trại là việc rất thường, phổ biến. Hồng trại thành Hường, Nhậm trại thành
Nhiệm vì Hồng Nhậm là tên vua Tự Đức. Chỉ một cái tên Hoa là tên vợ vua Minh Mạng
mà lắm sự lộn xộn xảy ra: Thanh Hoa (tỉnh) đổi thành Thanh Hóa (có dấu sắc) hoặc
Hoa nói trại là Huê (Hoa Kỳ hay Huê Kỳ cũng là một), hoặc Đông Hoa đổi thành Đông
Ba (Cửa Đông Ba, chợ Đông Ba – “Chợ Đông Ba đem ra ngoài dại, cầu Trường Tiền đức
lại xi-moong”), v.v… Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, … đổi thành một, hơi, bơ, tứ,
niêm, siếu,… để trở thành một ngôn ngữ Việt Nam “mới”, cũng chẳng lạ gì nếu các
ông vua Nguyễn còn tiếp tục ngồi trên ngai vàng ở Huế cho tới… bây giờ.
Vậy thì Hóa
có đổi thành Huế cũng không có chi lạ cả.
Người Việt,
nói chung, và dân Trị-Thiên nói riêng, ngày nay nên có một ngày kỷ niệm công
lao công chúa Huyền Trân cho phải đạo, mặc dù Thuận châu hay Hóa châu chỉ là sự
đổi chác và “lật lọng” của vua nhà Trần, mà con cháu phải gánh cái nghiệp binh đao,
máu đổ xương rơi, hơn nơi nào hết trên dãi đất hình chữ S. Cái nghiệp ấy, đau đớn
đến cái độ, Huy Phương phải cất tiếng than:
Châu Ô, châu Lý mà chi nữa,
Đất đã mang
về nỗi biệt ly.
Cái nghiệp người xưa làm, người nay
chịu. Điều người xưa làm ấy, như tôi nói ở trên là “lật lọng”. Việc đó có nói
trong chính sử, còn sau đây là dã sử:
Khi Chế Mân chết, - lúc ấy Chế Mân cũng
đã già - lấy vợ mới chưa được một năm mà qua đời là vì tuổi già sức yếu hay công
chúa Huyền Trân có số sát phu -, vua Anh Tông lo quá, sợ theo phong tục Chiêm,
con gái mình sẽ lên giàn hỏa, nên hỏi triều thần có ai chịu vào Chiêm quốc, giả
nói là đi phúng điếu nhưng thực ra là để lén cứu công chúa đem về?
Đi cứu người đẹp!
Có trang phong nhã hao hoa nào tình nguyện xin đi? Không ai bằng Trần
Khắc Chung. Theo dã sử thì Trần Khắc Chung là người tình cũ của công chúa. Đi cứu
người tình cũ của mình, có cái nào “vạn hạnh” hơn cho Trần Khắc Chung. Không cần
vua hỏi, Trần Khắc Chung cũng đi, huống gì vua đã hỏi có ai tình nguyện.
Vì trọng trách vua giao, vì tình yêu
với Huyền Trân, Trần Khắc Chung đã “xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ”, đem công chúa
về tới đất Thăng Long, sau một năm “đi lạc” vì bão. Đường từ Bình Định (thành Đồ
Bàn, kinh đô Chăm-Pa từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15) ra Hà Nội đâu có bao xa mà “chàng
và nàng” đi lạc những một năm. Một năm đi lạc là một sự lạ, và không kém phần kỳ
thú. Một chuyến “đi lạc” hay nhất trong những thiên tình sử của nhân loại, hơn
cả “Tiểu Nhiên Mỵ Cơ”.
Thế là sau gần hai năm, công chúa
Huyền Trân ra đi rồi lại trở về. Người (hay giai nhân) của nước Đại Việt ra đi
thì không mất, (“một sợi lông chân”, như tục ngữ thường nói) -, nhưng Chiêm Thành
thì không bao giờ lấy lại được đất hai châu Ô và Rí. Trong cuộc đấu đá tranh giành
nầy, người ta cho rằng người Việt thì khôn mà người Hời (tên nôm na của người
Chiêm) thì dại. Hãy nghe quan đại thần Hoàng Cao Khải tự hào về cái khôn của dân
tộc mình:
Công
chúa Huyền Trân
Đổi chác khôn ngoan cũng nực cười
Vốn đà không mất lại thêm lời
Hai châu Ô, Rí vuông ngàn dặm
Một gái Huyền Trân đáng mấy mươi
Lòng đỏ khen ai lo việc nước
Môi son phải giống mãi trên đời
Châu đi rồi lại châu về đó
Ngơ ngẩn trông theo mấy đứa Hời
Hoàng
Cao Khải
“Châu đi rồi
lại châu về”. Viên ngọc (châu) đã đi mà lại về. Hơn truyện Kiều xa: “Biết đâu Hợp
phố mà mong châu về”.
May mà nước
Chiêm Thành sau đó bị tiêu diệt, không bao giờ phục hưng lại được. Giả tỉ nước
Chiêm Thành ngày nay vẫn còn đó, thì mối hận bị mất đất biết bao giờ mới nguôi,
và chiến tranh giành lại đất của Chế Chí (2) khi nào mới dứt.
Giả tỉ nhà
Trần hồi ấy, đem con gái về thì trả đất lại cho Chiêm Thành, thế là sòng phẳng.
Hoặc ít ra, gả một công chúa khác cho Chế Chí thì đâu đến nỗi gây nên mối thù hận
ngàn năm! Quả thật An nam là một đế quốc, Tây gọi là L’Empire d’ Anam. Đế quốc
thì thường hay ức hiếp các nước nhỏ, gây nên thù hận.
Vua, hay những người cầm quyền của
một nước, thường vì quyền lợi riêng mình, đem đất dâng cho người. Người dâng đất
thì vui mừng, vì đất là đất chung, - cha chung mắc chi mà khóc - nhưng người dân,
hay nói rộng ra là dân tộc, bị mất đất thì lòng thù hận biết bao giờ nguôi? Ông
vua già Chế Mân, được vợ trẻ đẹp thì mừng hí ha hí hửng, nhưng dân Chiêm ở hai
châu Ô và Rí phải bỏ quê mà đi thì có vui được chăng?
Việc nầy khác
với việc Mạc Đăng Dung dâng đất năm động cho Tàu. Sử chép:
“Quan nhà Lê
sang Vân
“Việc định
sang đánh họ Mạc không phải là vua nhà Minh có vị gì họ Lê, nhưng chẳng qua cũng
muốn nhân lúc nước
“Năm đinh dậu
(1537), vua nhà Minh bèn sai Cừu Loan làm đô đốc, Mao Bá Ôn làm tán lý quân vụ,
đem quân sang đóng gần cửa Nam Quan (4) rồi truyền hịch đi mọi nơi, hễ ai bắt được
cha con Mạc Đăng Dung thì thưởng cho quan tước và hai vạn bạc. Lại sai người đưa
thư sang cho Mạc Đăng Dung bảo phải đưa sổ ruộng đất, nhân dân sang nộp và chịu
tội, thì tha cho khỏi chết.
“Mạc Đăng
Dung sai bọn Nguyễn Văn Thái sang sứ nhà Minh để xin hàng.
“Đến tháng
11 năm canh tí (1540), Mạc Đăng Dung thấy quân nhà Minh sửa soạn sang đánh, sợ
hãi quá chừng, bèn để Mạc Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng bọn Vũ Như Quế, cả
thảy hơn 40 người, tự trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam Quan, lạy phục
xuống đất để nộp sổ điền thổ và sổ dân đinh, lại xin dâng đất 5 động, là động Tê
Phù, động Kim Lạc, động Cổ Xung, động Liễu Cát, động La Phù và đất Khâm Châu. Lại
đem vàng bạc dâng riêng cho nhà Minh.
“Quan nhà
Minh tuy làm bộ hống hách, nói đem binh sang đánh, nhưng cũng sợ mấy cái vạ như
mấy năm bình định ngày trước, vã lại được tiền bạc của Đăng Dung rồi, cái lòng
nhiệt thành vị quốc cũng nguội đi, cho nên mới tâu với vua nhà Minh xin phong
cho Mạc Đăng Dung làm chức Đô Thống sứ, hàm quan nhị phẩm nhà Minh.”
Việc dâng đất
năm động của Mạc Đăng Dung cũng là một sự “lật lọng” của người Việt chúng ta.
Thật vậy! Đất năm động do Mạc Đăng Dung dâng cho nhà Minh chỉ là đất trên… giấy
tờ. Trên thực tế, đất năm động ấy không có ở đâu cả. Có thể đó là đất của Tầu (Đất
Tầu đem dâng cho Tầu), hay Tầu đã chiếm các động ấy từ lâu rồi, hoặc đất do Mạc
Đăng Dung “tự biên tự diễn” trên… giấy tờ. Khi quan Tầu đi nhận đất, không thấy
đất đó ở đâu cả, giận lắm, nhưng biết làm sao được. Tập họp binh mã lần nữa để
sang hỏi tội Mạc Đăng Dung là việc đâu phải dễ. Vã lại, vua quan gì đó bên Tầu
cũng đã được Mạc Đăng Dung “đấm mõm” cả rồi, “Ăn xôi chùa ngọng miệng”, biết nói
năng ra làm sao! Hơn nữa, cái chết của Liễu Thăng ở núi Đạo Mã Pha (Chi Lăng),
cái gương Vương Thông xin hàng, được Lê Lợi tha về, hay Mộc Thạnh, nghe tin Liễu
Thăng chết rồi, ba chưn bốn cẳng “tam thập lục kế” cũng chưa hẵn đã phai mờ
trong lịch sử xâm lăng của nước Tầu. Nói như Trần Trọng Kim ở trên thì khi đã có
cái lợi cho bản thân rồi “cái lòng nhiệt thành vị quốc cũng nguội đi”. Ai bảo
người Tầu yêu nước hơn người Việt?!
Trong lịch
sử nước ta, việc “bắc cự Tầu, nam diệt Chiêm” chưa bao giờ ông cha chúng ta
thua thiệt, mất người mất đất. Đó là sự khôn ngoan hay “lật lọng”? Việc đó, tôi
không dám nói chắc, xin để lịch sử phê phán. Tuy nhiên, ở đây, xin nói rõ, phải
chi ải Nam Quan cũng là đất khống như đất năm động thời nhà Mạc thì nước ta khỏi
mất đất mà cha con nhà Hồ (Hồ Chí Minh, không phải Hồ Quí Ly) cũng như đảng Việt
Cộng khỏi mang tội với lịch sử.
Đã lật lọng,
người Việt chúng ta có khinh người khi gọi người Chàm là Hời. Tiếng Chàm hay
Chiêm Thành hay Chăm-pa còn nghe được. Còn tiếng Hời nghe không tôn trọng người
ta chút nào! Người Chiêm chết hiện thành con ma rút ruột đi ăn phân người thì gọi
là ma Hời. “Muôn ma Hời sờ soạn dắt nhau đi.” Chế Lan Viên viết như vậy đấy. Tệ
hơn, quan đại thần Hoàng Cao Khải, như viết ở câu thơ trên là lũ: lũ Hời: “Ngơ
ngẩn trông theo một lũ Hời.”
Xin trở lại
chuyện châu Ô và châu Rí, nói rõ là Rí, không phải Lý. Trong chữ Hán và chữ Nôm,
không có chữ Rí nên ngày xưa ông cha chúng ta phải mượn chữ Lý để thay cho Rí.
Nay chữ quốc ngữ có thể viết được chữ Rí, nên tôi giữ lại tên cũ là Rí cho đúng
với tên của người Chăm.
Khi mới
“gia nhập” lãnh thổ nước Việt, Ô Rí là đất ô hợp. Chữ ô (hợp) nầy có 2 nghĩa.
Theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh thì Ô có nghĩa là “nước đục, nhớp nhúa,
chỗ đất thấp, ẩm, con quạ. “Ô châu ác địa”: Ngày xưa, khi Chiêm Thành nhường đất
Ô châu lại cho nước ta, các đời vua thường di dân đến đó để mở mang đất đai, người
ta đồn rằng đất đó là xứ ma thiêng nước độc, nên gọi là “Ô châu ác địa”. (Đào
Duy Anh)
Khi còn nhỏ, qua gia đình, tôi biết
nơi tôi sinh đẻ (thị xã Quảng Trị) ngày xưa thuộc đất Ô châu. Nếu có chuyện gì
xấu xa xảy ra, tôi từng nghe mẹ tôi than bằng câu ca dao: “Đất nầy là đất Ô châu,
ai đi tới đó mang bầu về không!” Bầu là cái bụng bầu hay ôm bầu tâm sự mà về quê!
Tôi không rõ.
Trong định
nghĩa nói trên của ông Đào Duy Anh, ông viết “di dân đến đó”. Dân nầy là dân như
thế nào?
Luật Hồng Đức đời Lê Thánh Tôn có 3
tội lưu (bị đi đày ra khỏi xứ). Đó là: Lưu cận châu: đày vào Nghệ An, lưu viễn
châu: đày vào Bố Chính, lưu ngoại châu: đày vào Tân Bình, Thuận Hóa. Các vua đời
Lê cũng cho thành lập các dinh điền, giao cho các quan dinh điền sứ trông coi, đưa
binh lính vào đấy để khai khẩn đất hoang.
Như vậy, tổ tiên đầu tiên của người
Việt ở hai châu Ô và Rí là những tội đồ bị lưu ngoại châu hoặc binh lính dinh điền.
(5)
Không hẵn
hoàn toàn như vậy.
Nguyễn Hoàng
vào trấn thủ đất Thuận Hóa năm 1558, ông mang theo tướng sĩ binh lính của mình,
cũng như bà con thân thuộc. Những người đi theo Nguyễn Hoàng, nhìn chung, đâu
phải hàng hạ lưu. Khi Nguyễn Hoàng vào tới Ái Tử (phía bắc sông Thạch Hãn), vì đây
là cái truông cát (Truông Ái Tử, tên thường gọi) quan quân khát nước. Dân chúng
đem nước ra dâng. Thấy vậy, Nguyễn Ư Kỷ, cậu của chúa Nguyễn, đi theo làm quân
sư, mới nói rằng: “Nay mới đến trấn mà dân đem nước ra dâng. Ấy là điềm trời
cho. Nước ấy là nước vậy.”
Cảm cái ơn
của dân chúng, Nguyễn Hoàng bèn đóng quân tại Ái Tử. Do đó, khởi thủy, chúa
Nguyễn dựng đất ở phương nam, lập nên nghiệp lớn là ở Ái Tử. Ái Tử thuộc châu Ô
hay châu Rí?
Để rõ hơn, tôi xin chứng minh:
Sông Ô Lâu
- cách cầu Mỹ Chánh đúng 9 km về phía nam, là ranh giới hai tỉnh Quảng Trị - Thừa
Thiên. Thời chiến tranh Việt Pháp 1945-54, xe thiết giáp hai tỉnh Quảng Trị, Thừa
Thiên hộ tống các đoàn công-voa dân sự, tới cầu Ô-Lâu thì hai bên bàn giao cho
nhau. Thời Đệ Nhứt Cộng Hòa, đường sá được chỉnh đốn thì ngay cầu Ô-Lâu, phía bờ
nam có bảng đề ranh giới hai tỉnh. Có nghĩa là ty công chánh Quảng Trị chịu trách
nhiệm chăm sóc, tu sửa cây cầu nầy. Cũng thời chiến tranh nói trên, phía thượng
nguồn sông Ô-Lâu là chiến khu của Việt Minh, có ai đó, tôi không rõ tác giả, đặt
bài hát như sau:
Ôi giòng Ô, vang chiều nay,
Trong khói sương buồn,
Mây chiều buông xuống,
Lau lách ven bờ, đìu hiu
gió sương.
Thuyền lên chiến khu,
mái chèo đưa nhanh
Lau xanh nghiêng nghiêng,
vươn mình giòng Ô…
Ôi! Giòng Ô,
Vươn mình băng qua khe suối,
Qua thác ghềnh, bọt tung sóng reo lao xao.
(Tôi chỉ nhớ có chừng đó
– (6)
Trong cách đặt
tên của người xưa, tên mới thường nhại theo tên cũ. Tên mới là Ô Lâu, nhại theo
tên cũ là châu Ô.
Lại cũng
theo học giả Thái Văn Kiểm, trong một bài viết trên tờ “Phụng Sự” của Quân Đội
Cộng Hòa xuất bản khoảng năm 1957, thì đất Nam Ô, nổi tiếng nước mắm ngon ở phía
nam chân đèo Hải Vân, có nghĩa là “Phía Nam châu Ô” (Nam Ô). Theo cách nhìn như
vậy, châu Ô có thể từ sông Ô Lâu tới đèo Hải Vân. Người ta thường dùng đèo hay
sông là những vật cản thiên nhiên để làm ranh giới. Xem ra, theo nhận xét đó,
thì tỉnh Thừa Thiên nằm gọn trong lãnh địa châu Ô ngày trước.
Phần đất còn
lại, tỉnh Quảng Trị, thuộc châu Rí chớ còn gì nữa. Như vậy, châu Rí, kể từ phía
bắc sông Ô Lâu tới chỗ nào thì hết địa phận?
Xin trở lại
lịch sử. Sử chép:
“Nước Chiêm
Thành hay sang quấy nhiễu, ngài (Lý Thánh Tông – tg) thân chinh đi đánh. Đánh lần
đầu không thành công, đem quân trở về. Đi đến châu Cư-liên (?) nghe thấy người
khen bà Nguyên phi ở nhà giám quốc, trong nước được yên trị. Thánh tông nghĩ bụng
rằng: “Người đàn bà trị nước còn được như thế, mà mình đi đánh Chiêm thành không
thành công, thế ra đàn ông hèn lắm à!” Lại đem quân trở lại đánh, bắt được vua
Chiêm thành là Chế Củ. Năm ấy là năm kỷ dậu (1069). Thánh tông về triều, đổi niên
hiệu là Thần Vũ.
“Chế Củ xin
dâng ba châu để chuộc tội, là châu Địa lý, châu Ma Linh và châu Bố Chính. Thánh
tông lấy ba châu ấy và cho Chế Củ về nước.
“Những châu
ấy nay ở địa hạt tỉnh Quảng bình và tỉnh Quảng trị.”
(Việt
Q. 1 trang 100)
Theo cách đặt
tên như nói ở trên, tên Nam Ô và sông Ô-Lâu, thì tên Bố Chính nay còn ở trong tên
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, tên Ma Linh, còn lại trong tên phủ Vĩnh Linh,
huyện Gio Linh tỉnh Quảng Trị.
Nếu Gio
Linh thuộc châu Ma Linh ngày trước thì châu Rí nhỏ lắm, giới hạn từ hết địa phận
huyên Gio Linh, phía tả ngạn sông Hiếu Giang, con sông chảy ngang làng Điếu
Ngao, làng của Leyna Nguyễn, nay là phường 2 thị xã Đông Hà, nên gọi là sông Điêế
Ngao, tới sông Ô Lâu. Vậy châu Rí nằm gọn giữa hai con sông: Sông Ô Lâu ở phía
nam và Hiếu giang ở phía bắc, bề ngang từ biển lên tới biên giới Việt Lào đã hẹp,
hẹp nhất trong cái eo của bản đồ Việt Nam, chưa tới 50km, và bề dài, đoạn giữa
hai con sông nói trên cũng chưa tới 50km.
Bài viết nầy,
chỉ là việc khai triển lại cuộc nói chuyện hạn chế với một số bạn cũ, gồm cả những
cựu giáo sư Nguyễn Hoàng từ Việt Nam qua thăm đồng hương, trong dịp “hội ngộ học
sinh liên trường Quảng Trị” tổ chức tại Houston, Texas đầu tháng 7 năm 2008 vừa
rồi.
Mass
cuối tháng 7-2008
hoànglonghải.
(1) Nước non ngàn dặm ra đi,
Cái tình chi,
Mượn màu son phấn
Đền nợ Ô Ly,
Tiếc thay vì đương độ xuân thì
Số lao đao hay nợ duyên gì
Má hồng da tuyết
Cũng như liễu hoa tàn trăng khuyết
Vàng lộn theo chì
Khúc ly ca, sao còn mường tượng nghe gì
Thấy chim hồng nhạn bay đi
Tình lai láng
Hướng dương hoa quì
Dặn một lời Mân quân
Như chuyện mà như nguyện
Đặng vài phân
Vì lợi cho dân
Tình đem lại mà cân
Đắng cay muôn phần./
(2) Chế Chí: “Từ khi Chế Mân chết rồi,
Chế Chí lên làm vua Chiêm Thành. Nhưng Chế Chí hay phản trắc, không giữ những điều
giao ước trước, cho nên năm tân hợi (1311) Anh tông cùng với Huệ võ vương Trần Quốc
Chân, Nhân huệ vương Trần Khánh Dư, phân binh làm ba đạo sang đánh Chiêm thành,
bắt được Chế Chí đem về An-nam và phong cho người em là Chế- đà a-Bà làm vua
Chiêm thành.
Chế Chí về An nam được phong làm Hiệu thuận vương, nhưng chẳng được bao lâu
thì mất ở huyện Gia lâm. Vua sai đưa hỏa táng. Từ đó về sau nước Chiêm và nước
(3) Không rõ bây giờ, “dưới ánh sáng
chủ nghĩa Mác-Lênin, (và tư tưởng Mao, tư tưởng Hồ) - Cộng Sản Bắc Kinh và Cộng
Sản Hà Nội có khác đi chăng. “Thế giới đại đồng” thì có đem ải Nam Quan mà dâng
cho Trung Cộng cũng chẳng sao?!?!???
(4) Đóng “gần cửa Nam Quan”, không dám đóng ngay cửa Nam Quan vì sợ, bấy
giờ cửa Nam Quan chưa được chính quyền Cộng Sản Hà Nội đem “biếu” cho Trung Cộng.
(5) Khi tôi còn ở trại tỵ nạn Pulau Bidong, linh mục Quentin, người
Úc, khuyến khích tôi đi Úc, ông sẽ giúp đỡ. Tôi gởi thư cho con tôi ở Mỹ, hỏi ý
kiến. Sợ tôi đi Úc, con gái tôi nhắc lại lịch sử Úc, tổ tiên họ là những người
tù Anh Quốc bị đày sang xứ sở nầy.
(6) Anh Võ Cư, nhân viên ty Công
An, (anh của Võ Tử Bé và Võ Hoa, hát rất hay), ở chiến khu về, tập cho tôi hát
bài hát nầy và đàn vọng cổ bằng guitar. Hồi ấy, năm 1951, tôi chưa thấy người
ta đàn vọng cổ bằng đàn guitar như anh Võ Cư.
No comments:
Post a Comment