Đất
ruộng Động Đền quả thật hiếm hoi cho ai chỉ biết một nghề là làm ruộng. Một
dải đất pha cát ven biển Hàm tân, chỉ có biết chăm chỉ làm nông, cần
cù, chịu khó, khai hoang tìm kiếm, có thể nói từng tấc đất một mới sống được
qua ngày.
Kỷ niệm ở đây tôi không thể nào quên được những năm sau 1980, thời gian tôi có
mặt tại "XỨ ĐỘNG"- cái tên do một "tay sáo" có biệt danh là
THÀNH TÍN để gọi Động Đền. Anh cũng người gốc phường Đệ Tứ, thị xã Quảng Trị
năm xưa theo người Quảng trị đi theo chương trình KHẨN HOANG LẬP ẤP, từng sống
gọi thay cho Động Đền.
Người QT vừa lúc Di Dân vào Động Đền 1973-1974
Ở tù cải tạo về, còn độc thân tính tôi siêng năng chịu khó.
Tôi không bao giờ bỏ qua bờ tranh, bụi lách hoang nào. Tính siêng năng đó đến từ
lòng mong muốn kiếm thêm chút diện tích nào đó thế cho đám đất bạc màu trên cái
rẫy có tên rất lạ là "CHỒM CHỒM". Bản thân tôi những ngày đoàn
viên về với cha mẹ, còn nhớ một cây cầy cổ thụ cao to, gỗ cứng ngắt, nên
trơ trọi còn lại trên rẫy đó. Mọi người trong vùng ai cũng chê, nhưng tôi chẳng
bỏ. Dù có phồng rộp hai bàn tay, tôi cũng chặt hạ nó cho kỳ được. Hạ cây gỗ cứng
đó xong, chỉ nhờ đôi vai, tuy đường xa hai anh em tôi gánh hết về nhà. Đến
khi hỏi vợ xong, tôi đi phụ làm ruộng với cha vợ, cái tánh siêng năng cũng
không giảm bớt mà lại còn tăng gấp bội.
Động Đền hồi này có đến sáu thôn. Người dân phải sống với
đám ruộng pha cát bạc màu nhỏ hẹp. Đất ruộng hẹp đến nổi đứng bên này nói
vói qua bên kia vẫn rõ giọng. Hàng trăm gia đình cạnh tranh nhau từng tất ruộng,
bờ be để sinh tồn. Lại có lúc mích lòng nhau cũng do giành giưtt từng
miếng nước đem vào từng miếng ruộng bé nhỏ của họ.
Năm 1974 dân Quảng Trị mới vào khai phá vùng đất này, nó chỉ
tốt cho vài năm đầu. Ai còn ở đó đều kể lại chuyện ngày mới di dân vào đó.
Hình ảnh những vồng khoai tốt củ, bới lên to chưa từng thấy. Người ta còn kể lại
chuyện nhiều bụi sắn, củ nhiều và to đến nổi hai ba người mới nhổ lên được. Đó
là chuyện năm sáu năm trước khi tôi ở tù về. Nhưng chuyện sắn khoai, ai là người
dân xứ Động cũng còn nhắc lại. Thế nhưng đất hẹp người đông, túng cùng
sinh kế có người phải từ giã quê hương gian nan chật vật đó mà ra đi biền biệt.
Họ đã vào tận Rạch giá, Bạc liêu nơi ruộng đồng "cò bay thẳng cánh".
Cũng có người lìa xa cái xứ mang hai chữ Động Đền ra đi nhưng lại chịu làm
phu cao su tại những vùng đất đỏ nông trường tại Long Khánh, Long Thành hay Bà
Tô, Xuân Sơn, Ngãi Giao, Bình Giả...
GIAN
NAN SAN LẤP HỐ BOM
Tôi về với gia đình ba mẹ thì không đi đâu, chỉ biết bám ở lại vào những mét đất
ruộng cằn cỗi đó. Tôi tự xem như là "đồng cam cộng khổ" với những ai còn ở lại cho đến ngày lấy vợ lập gia đình. Làm sao
quên được ngày tháng cần cù chịu khó ; ba vợ tôi, mấy đứa em vợ, và cả
tôi ngày lại ngày san cả hố bom từ lâu biến thành cái hồ ở giữa đám ruộng. Cái
hố bom là miếng đất hoang, chẳng ai có gan san lấp, thế mà cả nhà tôi dám
làm.
Kiên trì, nhẫn nại là sức bật cho
chúng tôi đủ ý chí san lấp hố bom mà bà con thôn xóm chưa ai nghĩ đến. Nỗi
đau khi cả nhà cùng lê lết cắt từng nhánh lúa nhẹ bấc, mất mùa , chỉ còn vài hạt,
vì đất chẳng còn gì cho cây lúa sinh sôi nảy nở. Lúa cắt không đủ bù giống!
có nhà bỏ luôn không thèm cắt nữa ! Cánh đồng lổ đổ những đám lúa mất mùa , thiếu
phân, thiếu nước. Những nhánh lúa lép xẹp, hạt ngay đơ, chỏng ngọn lên trời
như " than
thân trách phận". Chúng thấp hơn
đầu gối, buộc chúng tôi cùng hàng ngang vừa ngồi vừa cắt . Những
nhánh lúa nhẹ đến nỗi không gây được chút cảm giác nào trong lòng bàn tay
! Tôi nhớ hòai những buổi gặt lặng lẻ,- sự lặng lẻ- buồn bả,- chua
cay. Chúng tôi im lìm làm việc, những động tác chán nản khó tả, dù
không nói nhưng ai cũng mang tâm trạng giống nhau.
Quê nghèo làm gì có trâu bò ! hoàn cảnh bấy giờ trâu bò là cả một gia tài
không ai dám mơ. Không trâu bò làm ruộng, mấy cha con chúng tôi chỉ nhờ
vào cái cuốc bản thật to để cuốc mau hơn. Mỗi lát cuốc, tôi phải cắn
răng, mím môi, cố sức lật cho đươc tảng đất lớn lẫn bùn sình. Sức người
và những cái bừa 'cải
tiến' chúng tôi đã bừa lại ruộng
trước khi cấy lúa. Tôi và mấy đứa em vợ thay phiên nhau chòang những sợi
dây thừng qua vai xong cùng nhau kéo những đường xẻ thẳng tắp bỏ đậu phụng mùa
đất ẩm. Những lúc này tôi mới nhớ lại bài hát "quê nghèo" của
Phạm Duy thời chống Pháp rồi thấy hoàn cảnh hiện tại của chúng tôi thấm thía
làm sao !
Trớ trêu thay, những hình ảnh được nhạc sĩ Phạm
Duy từng vẽ lên trong bài hát đó lại vận vào số phận chúng tôi không sai chút
nào . Tôi càng thấy tội nghiệp, nay thôn xóm đã đủ ăn, dư mặc thì hai đứa em vợ
nay đã ra người
thiên cổ. Nay tôi thì ra tận xứ
người, hai đứa em ở lại đã nằm yên trên đồi hoang lộng gió , nhìn về biển khơi
, nhìn lên núi Bể mà cảm thuơng cho những số phận lầm than!
CHUYỆN
KHOAI CÁ BÙ CƠM
biển Cam Bình Động Đền vào sáng sớm
Tôi xin trở về chuyện xưa : chuyện của những
chiều tà trên biển Cam Bình
Biển Cam
Bình lúc bình minh
*
Mùa rảnh tôi ra biển phụ kéo lưới bờ với ngư dân .
Hai toán người già có, trẻ có phụ nhau kéo lưới vào bờ . Thúng không ra xa nên
chỉ giăng lưới rùng sát bờ kiếm cá nhỏ thôi . Tình làng nghĩa xóm người nông kẻ
ngư ai cũng là lối xóm nhau cả. Mớ cá vụn kéo xong bà con chia nhau sòng phẳng
không nề hà kẻ yếu người mạnh. Cứ buổi như thế tôi cũng kiếm được một bao cát
cá cơm về cho mẹ tôi làm mắm.
NGÀY
CÚNG CƠM MỚI ĐẾN
Thế là nhà vợ tôi cùng tôi đã thành công san cái hố bom. Hố bom đó dĩ nhiên không thể rộng thêm nhưng đất đai cả nhà tôi đổ vào càng lúc càng nhiều . Số phận và kiên trì đã thách đố nhau. Hình ảnh cái hố bom đó đã thực sự biến mất; miếng đất hoang đã hiện thành sào lúa đầu mùa được sức trĩu nhánh. Lúa vàng óng ánh no tròn đầy hạt hòa với niềm vui của ba vợ tôi cùng tôi -người rễ tương lai- cả hai đang đứng bên lề ruộng ngắm say sưa.
Ngày CÚNG CƠM MỚI đến. Ông gia
tôi có lệ hay cúng cơm mới sau khi hoàn tất một vụ lúa dù được hay mất mùa. Mùa
cúng cơm mới cái năm mà chúng tôi thu hoạch những gánh lúa đầu tiên từ hố bom
nhà tôi vừa lấp nó vui vẻ và háo hức thật. Mẹ gia tôi tất tả ra chợ từ sớm, bà
cũng vui lây với niềm vui trúng mùa của chồng con. Mâm cơm mới vừa trưa là đã
xong để ông gia tôi trước là khấn nguyện tạ ơn thổ thần đất đai sau đó cả nhà sẽ
cùng nhau ăn mừng một mùa làm lụng cực nhọc đã qua.
Làm sao chúng tôi không vui do từng giọt mồ hôi cùng bàn tay
rát bỏng để kiếm ra hạt gạo. Trong niềm vui đơn sơ - bình dị đó, lòng tôi phát
sinh niềm thông cảm cho nỗi cơ cực của người nông dân. Tai tôi như thấm
thía nghe văng vẳng đâu đây lời nhạc nồng nàn của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ một nhạc
sĩ tài ba sinh ra, lớn lên từ tình cảm quê hương. Đúng quá đi thôi, phải là người
nông dân chân lấm tay bùn mới cảm nhận những nhánh lúa vàng đã biến thân cho
bao hạt "gạo cười tươi" trong ngày cúng cơm mới. Tôi mới nhận ra được
giá trị của cái nghề làm ra hạt lúa cùng cảm thông sâu sắc nỗi nhọc nhằn, lo toan
từ những nơi đất hẹp, người đông cùng lúa ruộng bạc màu. Cho đến khi chính vai
tôi gánh xong những gánh lúa mùa về mới thấy lòng vui như mở hội.
Những hạt gạo trắng ngần mới thay xong
lớp vỏ lúa; chúng vừa rời đồng ruộng chỉ mấy hôm thôi. Giờ đây chúng biến thân
thành từng chén cơm thơm ngát cho buổi CÚNG CƠM MỚI. Ông nhạc tôi vui cười liên
hoan chén tạc chén thù với người con rể. Còn tôi vừa thưởng thức một buổi cúng
cơm mới bên nhà vợ, vừa ngắm lại cánh đồng nhỏ hẹp đang trơ gốc rạ bên hông
nhà.
Trong NGÀY
VUI CƠM MỚI, tôi sung sướng khi ngày cưới của vợ chồng tôi gần kề. Đồng cảm từ
những hoàn cảnh giống nhau, tôi bước vào làm rể nhà vợ tôi không một điều kiện
nào ngoài trừ hai bàn tay trắng cùng một tấm lòng ngay thật.
Giữa cánh đồng là con đường đất đỏ duy nhất dẫn về thị trấn LA GI.
Dưới đó là nơi phố thị nhưng không xa vùng này nhiều lắm. Có vài ba con buôn,
phương tiện của họ là xe đạp, đang gò lưng cố đạp trong mùa gió ngược. Buôn bán
đường xa, những chiếc áo phong sương đang phập phồng bay theo gió. Mùa gió chướng
đến rồi. Mấy mảnh đất khô cằn chẳng còn sinh thêm lợi tức gì nữa? Ngoài biển
người dân làm cá cũng chẳng hơn gì; sóng lớn bạc đầu thi nhau đập vào bờ. Mấy
chiếc thuyền nhỏ thiếu cá đang nhấp nhô theo sóng- nhiều chiếc thúng nay úp
phơi trên cát, ít ai ra khơi.
Tôi nhớ vào lúc tàn buổi cúng cơm mới, tôi gắng
uống thêm vài ba chung rượu với gia đình bên vợ; có thể do trong lòng tôi muốn "tận huởng" cho hết, cho trọn vẹn
một ngày VUI CƠM MỚI khi biết rằng
hôm sau sẽ là chuỗi thời gian tiếp nối của cuộc sống cầm cuốc, rựa gian nan chật
vật đang chờ...
*
Xuân Đinh Dậu 2017: lần cuối nhạc phụ tôi (hình đang đứng) gói bánh tét cho cái tết cuối đời tại Cam Bình/ Động Đền/ xã Tân Phước La Gi Bình Thuận (người viết đang ngồi quạt lửa)
Nhớ lại chuyện xưa, thế mà nay đã hơn bốn mươi năm vùn vụt qua nhanh, kéo theo bao nhiêu biến đổi cuộc đời. Hình ảnh thôn xóm nghèo nàn ngày xưa đó nay biến đổi gần như hoàn toàn. Người ta không còn bám theo bờ ruộng hẹp hòi như xưa nữa. Bao lớp trẻ ra đi tìm đất sống mới, nghề nghiệp mới cùng cuộc đời mới. Lớp người già lần lượt cùng nhau từ biệt kiếp nhân sinh tạm bợ để về cõi trời miên viễn. Ông gia tôi hôm nay đã ra đi, giã từ cháu con- vĩnh biệt quê hương thứ hai mà bao chục năm nay người mình quen gọi hai tiếng ĐỘNG ĐỀN.
Động Đền-Bình Tuy từng gắn bó với bao mảnh đời lưu dân Quảng Trị, trong đó có hình ảnh nhạc phụ tôi hàng ngày cần cù cuốc đất trên đám ruộng pha cát bạc màu, ven biển. Trong bao kỷ niệm vơi đầy đó, tôi không quên hình ảnh cùng tiếng nói cười trong NGÀY VUI CƠM MỚI, như lời nhạc của Hoàng Thi Thơ, chính đó vẫn mãi là "dư âm xa, còn vang mãi trong ánh đêm trăng tà" để mỗi khi sống về kỷ niệm xa xưa dù chan chứa nhiều nỗi nhọc nhằn nhưng lại thấm đượm tình quê ./.
ĐHL EDITION
6/6/2022
==================
No comments:
Post a Comment