Friday, September 8, 2023

BÀI TỔNG HỢP VỀ QUÊ TRUỒI CỦA ĐHL

 

Bài 1

 QUÊ TRUỒI

Monday, March 23, 2015

 by ĐHL

 
hình chụp năm 2000: đò từ chợ Lộc Điền chèo qua bến Xóm Bột thôn Xuân Lai


     Tôi là đứa cháu ở xa quê nội do tôi sinh ra tại quê ngọai Quảng trị trước ngày hiệp định Geneve chia đôi đất nước một năm. Do ở xa nên lâu lâu vào dịp giỗ chạp hay tết tôi mới được ba tôi dẫn về Truồi thăm nội. 

hình xưa : xe đò hãng Tiến Lực Đà Nẵng chạy suốt Quảng trị- ngang cầu Truồi năm 1965

   Xe dừng ngoài đường cái quan và con đường cái  vô làng không xa lắm,  tôi  đi một lúc thì đến bến đò Xuân lai thôi.  Con đường qua đình Bàn môn,  tôi còn nhớ  hình ảnh mấy căn nhà lợp ngói âm dương  nằm im lìm sâu sau mấy cây dâu Truồi  trĩu trái. Nhà ai đó còn  có cả vườn chè xanh ngắt nằm trước sân nhà . Chè xanh và dâu hai thứ cây  này vẩn in đậm trong trí nhớ non nớt của tôi . Cũng như sự nao nức của đứa cháu  từ xa về quê nội, tất cả cảm giác xưa kia sao vẫn còn mãi trong tim .


thuở 1960s khi vô thăm ÔN,  tôi hay qua ngôi đình làng Bàn Môn trên rồi mới đến Xuân Lai gần sông  Cảnh cũ người xưa giờ đâu thấy 

thân phụ tôi lúc 18 tuổi




 dâu Truồi nổi tiếng ngọt 

   Theo lời ba tôi kể lại ông nội tôi ít đi đâu. Cuộc đời sống bên cạnh mệ, cạnh cái bến đò chèo qua bên kia là chợ Lộc Điền. Quá khứ quê nội hay cuộc đời mệ tôi  người con gái đất Thanh Quýt Quảng Nam, nay gắn bó với chợ Lộc Điền.  Có mệ tôi thì chợ chẳng bao giờ thấy vắng hình ảnh những cái bánh bột lọc gói cùng tô cháo bánh canh.

bánh bột lọc gói Truồi ngon nhớ hoài 


BÁO LIFE HOA KỲ ĐĂNG HÌNH GÁNH NƯỚC CHỢ LỘC ĐIỀN 1960 DO LÍNH MỸ CHỤP ĐƯỢC 

bến nước chợ Lộc Điền năm xưa hàng ngày mệ tôi từ bến đò Xuân Lai qua bến đò này. Mệ tôi tảo tần gánh cháo bột lọc cũng như bánh bột lọc gói nuôi gia đình 

*



 Còn Ôn tôi làm ông từ, lo huơng khói quanh năm săn sóc cho cái miếu âm hồn xây từ năm 1947 trong thôn Xuân Lai. Miếu xây lâu đời  cạnh  sông Truồi tháng ngày êm ả trôi về đầm Cầu Hai cách làng một khoảng không xa. Ôn tôi bên bà con làng xóm- người hiền từ đôn hậu nên xóm làng ai ai cũng thương mến.

  Vào thăm Truồi tôi hay được nằm ngủ cạnh ôn nội trên bộ ngựa đen bóng. Cái đòn gỗ cứng ngắt Nội tôi lại làm gối kê đầu. Cái gối đòn là hình ảnh lạ lùng đối với thằng bé. Nửa đêm, Ôn cứ xoa xoa đầu đứa cháu:

   -Cha mi nờ! cha mi nờ!

 Đây là cử chỉ thương mến của ông nội đối với đứa cháu xa quê. Trong đêm khuya ôn tôi nưng nịu như thế cho thằng cháu nội ở xa về thăm Ôn chỉ hai ba ngày tết. Tôi cứ nằm im giả bộ ngủ cho Ôn xoa đầu. Có một cảm giác êm dịu, trìu mến khó quên. Tôi nhớ ôn và nhớ cả bộ ngựa dày cui, của ôn nằm. Rủi thay, sau này tôi được biết vào biến cố Mậu Thân cả nhà nội di cư lên Phú Lương lánh đạn. Ngưng tiếng súng về lại thì bộ ngựa bị kẻ gian từ làng nào tới lấy mất. 

***
sau 1968 chiến tranh khiến nhà nội tôi phải lên Phú Lương sinh sống. 1971 tôi vào Huế thi tú tài 1 và về Phú Lương thăm bà nội 
hình chụp với Đinh trọng Đẩu em con chú bác

 Tôi sinh ra đời và lớn lên bên ngoại. Năm tôi sinh thì ông ngoại tôi đã mất năm năm rồi. Mệ ngoại hàng ngày 'hủ hỉ' với đứa cháu ngoại đầu của mệ. Tôi lại ở xa nội nên cứ mỗi lần tôi vô Truồi thì cả nhà nội cứ tiu tít với đứa cháu từ xa vô. Con chú tôi khá đông đã thế, ai cũng gần Nội cả. Chỉ có mấy anh em tôi ở QT được xem là xa nhất. Sau 1954 ba tôi làm việc tận Quảng Trị quanh quẩn mấy quận ngoài này cho đến năm 1972. 


    Sáng  ngày tôi được nội tôi ưu ái cho ăn chung.  Hai ôn cháu ngồi ăn bữa trưa được dọn trên cái mâm gỗ tròn , cũ, ở bộ ngựa đằng đông . Thím Luông, vợ đầu chú tôi suốt đời bên Ôn; phận dâu con ngọt ngào hiền thục . TÔi nhớ  tô cá hanh' kho ám', ÔN tôi ưa ăn; ngoài ngoại tôi chẳng hề thấy kho kiểu này. Mỗi lần vô Truồi tôi lại thấy ôn tôi ăn cá hanh 'kho ám'.  Cá mới mua từ chợ Lộc điền, những con cá vừa được lưới lên từ dòng sông  êm ả trôi qua bến đò Xuân Lai. Tô cá kho nước trong vắt, vài lá hành nổi trên, thật đơn giản. Mấy hôm đó tôi được ngồi ăn chung với ôn nội. Mọi bữa, ôn được dọn ăn một mình. Tôi nhớ lại hình ảnh hai Ông cháu ngồi ăn chung năm đó  tôi  mới biết ÔN thương tôi - đứa cháu ở xa ngoài vùng địa đầu giới tuyến.

   Chú Đinh trọng Tương chúng tôi làm việc xa lâu lâu mới về nhà. Mệ tôi lưng mỗi lúc mỗi còng thêm. Hết gánh được mệ tôi vẫn ngày ngày cắp cái rỗ bánh bột lọc qua chợ Lộc Điền; vắng chợ là mệ nhớ. Những năm sau này việc nhà thím Luông tôi, là dâu đầu quán xuyến hết.  Hình ảnh mệ tôi hè về vẫn qua lại chuyến đò ngang qua chợ Lộc Điền. Tan chợ về, cái ướm đen mệ tôi mặc, lo bột, gạo cho buỗi chợ sáng mai.  Lưng Mệ cong lần theo năm tháng "gạo chợ nước sông", tảo tần nuôi sống gia đình làm tôi xúc động. Mệ tôi ra đi lấy chồng, giã từ Thanh Quít -'biền biệt ly hương' theo chồng ra tận quê Truồi từ những năm đầu thế kỷ hai mươi.  Mệ ra đi không một lần nhắc đến quê nhà mù mờ trong trí nhớ tôi ngoài giọng nói của Mệ thôi.  Năm 1972 Mệ tôi  ra đi trước ÔN tôi để thân xác lại quê chồng.  Khi tôi chạy giặc vào tận Mỹ Tho, tôi lại là đứa cháu phuơng xa được ưu tiên có 1 vé máy bay từ Sai Gòn ra về đến Xuân Lai.  May thay về đến quê Truồi  linh cữu  Mệ cũng đang đưa ra cửa.

***

    Và 1975- thời thế đổi dời - ba tôi chú tôi và ngay cả tôi cùng bao nhiêu người tất cả đều phải đi tù. Ôn tôi ngày ngày ngồi bên bến Xuân Lai thuơng nhớ cháu con chưa có ngày về. Biết bao gia đình trong thôn xóm cũng giống hoàn cảnh nhà ÔN, thiếu bóng đàn ông-- những cánh tay đắc lực nuôi sống gia đình.  Và biết bao gia đình,  phận đàn bà sau cuộc đổi dời "cánh cò lặn lội bò sông " gánh gạo nuôi chồng. 

 DI ẢNH ÔN MỆ NỘI(1890-1972)


 Một ngày trong năm 1976 khi tôi còn ở tù tại trại Ái Tử, nhân một sáng sớm đi chặt củi, tôi làm liều cởi lốt áo tù, giả làm dân thường đánh liều vào Huế và về tận Truồi. Chuyến trốn trại 'trong ngày' này chỉ có được chỉ từ sáng đến chiều khi tôi đã có sẵn gánh củi tôi chặt sẵn trước, giấu sâu trong bụi cây gần trại 4. Tôi tính liệu sẵn trong đầu, sau khi đi Truồi ra là gánh củi này về trại. Thật may mắn hay có sự phò hộ nhiệm mầu nào xui cho tôi ngày đó đi xe được vào Huế xong lại bắt xe về Truồi khá sớm...

 Hình ảnh trước tiên tôi nhớ mãi trong lòng là hình ảnh ÔN tôi ngồi thui thủi bên xóm vắng. Người đang phụ con cháu cạo đống sắn cạnh nhà để kiếm thêm cơm gạo với thím tôi. Ba tôi, chú tôi và ngay cả tôi ai cũng bị đi ' tù cải tạo' , kẻ bắc người nam tất cả đều đi xa . Căn nhà vắng vẻ. Tôi biết ÔN buồn lắm. Cuộc đời ly loạn, cảnh nhà ai ai cũng đổi thay theo. Hai ÔN Cháu ăn bữa trưa hôm đó. Thiếu gạo, thím tôi phải quậy thêm bột lọc thay cháo. Tôi không ngờ đó là bữa ăn cuối cùng giữa hai ÔN cháu. Sau này khi trại tù chúng tôi bị đưa ra lao động tại Lòng Hồ SÔng Mực Thanh Hóa vào năm 1977 thì thời gian này ông tôi mất. ÔN mất không thấy mặt hai người con trai, tức ba tôi và chú tôi, và ngay cả thằng cháu nội ở xa như tôi, cho ÔN xoa đầu như ngày xưa đó.

20 NĂM SAU 

Cuộc thế đổi dời, một miền nam mất đi bao người tù tội bao chia xa nhung nhớ đi theo. Người còn kẻ mất sau cuộc biển dâu, chỉ còn lại trên đời cho người còn lại chiêm nghiệm chuyện đổi thay. 

Hai mươi năm sau, năm 1996 vừa qua xứ Mỹ đúng một năm tròn, đứa chau nội ngày xưa không quên điều tâm niệm trước khi rời xa quê hương đất nước là xây lăng cho Ôn Mệ là điều thực hiện ban đầu.  Dù không nguy nga tráng lệ nhưng tôi cũng thỏa mãn trong lòng.


2 hình dưới
vợ chồng chú tôi Đinh trọng Tương cùng 2 con trai ngày KHÁNH THÀNH LĂNG ÔN MỆ VÀO NĂM 1996 TẠI TRUỒI 




================================================== 


bài 2- 
CÒN ĐÂU BÓNG PHƯỢNG SÔNG TRUỒI 



   bóng phượng xưa bên giòng sông Truồi nay không còn nữa



Ba tôi có kể cho tôi nghe, xưa ÔN trồng hai cây phượng vĩ để ghi nhớ hai người con trai là ba tôi và chú tôi. Sau này lớn lên, mỗi dịp xe chạy qua cầu Truồi , tôi hay ngó về hạ lưu nhìn tàng phượng dỏ nghiêng bóng bên sông . Cái bến đò thân thuơng, cái miếu quanh năm thâm nghiêm vắng vẻ, có tàng cây phượng vĩ che chở ấm êm,  và sau hết là nhà ông mệ tôi gần đó, chỉ vài bước thôi là bến nước ngó qua cái chợ cũ có tên Lộc Điền . Sau khi có thêm cái cầu mới bắc qua sông Truồi, tầm nhìn lùm phượng vĩ đỏ ối kia lại càng rõ hơn thêm.  Khi bóng ÔN vắng rồi, nhất là sau này khi ba tôi cùng chú tôi lần lựơt 'ra đi'   hai cây phượng gần cả trăm năm cũng lần lượt 'nối bước đi theo ' những người 'khuất mặt'?  Lớp cháu con qua sông nay chỉ còn thấy một khoảng trống cô đơn bên bến vắng. Thời đại đổi thay, những chuyến đò ngang cùng ông lái đò nay cũng không còn . Phải chăng đò cùng theo số phận hai cây phượng vĩ, Ôn Mệ Nội, ba và chú thím tôi... tất cả đều 'rũ áo trần gian' 

ĐỘNG TRUỒI VÀ BẠCH MÃ NƠI PHÁT NGUYÊN SÔNG TRUỒI 




***

Đất hẹp người đông , con cháu làng Truồi lần lựot tạ từ đất cũ  vào nam lập nghiệp. Thế hệ sau này đang hi vọng một cuộc sống sung túc hơn ở phương nam.  Con cháu ra đi về phương nam lập nghiệp chắc hẳn ai cũng để lại phía sau biết bao kỷ niệm vui buồn.  Các thế hệ này sẽ giã từ núi Truồi, khởi nguồn cho một dòng sông êm xuôi về phía hạ lưu, những triền đất đầy hoa sim dại , mấy lũy tre nghiêng bóng trước khi trôi qua cầu đen trui trủi cùng cái chòi canh xây từ thời Pháp thuộc . Riêng tôi, đứa cháu xa quê khi nào cũng hoài niệm về Truồi hình bóng ÔN MỆ bên cái miếu thâm nghiêm cùng một bến đò u tịch.


****
                                          

em gái tác giả Đinh thị Hiệp cùng con và rể ra Quê gặp con cháu bên Chú (ngày thăm TRÚC LÂM THIỀN VIỆN)




CON GÁI XỨ TRUỒI SIÊNG NĂNG BAO ĐỜI  NAY



 

 

============================================= ================== 

BÀI 3 

ĐẶC SẢN QUÊ TRUỒI 

Tác giả: NGUYỄN TRƯỜNG - Nam Phổ Cần




Kỷ niệm về làng Truồi (Sưu tầm)
Làng Truồi: bắc giáp với sân bay phú bài, Nam thì giáp với Đà nẵng. Phú lộc-TT.Huế, mãnh đất có lượng mưa nhất nước bởi đỉnh đèo Hải Vân, bán kính đồng bằng 1-3km Đông thì giáp biển và tây thì giáp với núi và Lào.
1.     Sông Truồi của xứ truồi, là con sông to thứ 2 của tĩnh TT.Huế, sau sông Hương. Chảy từ nguồn ra biển và cung cấp nước thành Hồ Truồi.
2.     Hồ Truồi: Hồ được xây và giữ nước ngọt và cung cấp nước ngọt cho các Huyện phía Nam TT.Huế.
3.     Chè truồi, là loại chè nổi tiếng bởi được trồng trên đất phù sa của núi rừng
     Xứ Truồi mít ngọt thơm dâu
Anh đi làm rễ ở lâu không về.

4.     Thiền viện Trúc Lâm, ngay giữa hồ Truồi có 1 hòn đảo và được xây dựng thành Thiền viện Trúc Lâm. Ai muốn vào Thiền viện phải qua con đường thủy.

5.     Phá Tam giang: Nổi tiếng cả nước bởi vì nó được bắt đầu từ đầu tỉnh TT.Huế và kết thúc vào cuối tỉnh thừa thiên huế.


6.     Núi Truồi, Đỉnh Bạch Mã: cao thứ 2 Việt Nam sau Pa-xi-păng: Phải nói các bạn lên đến đỉnh Bạch Mã thì là nơi nghỉ lý tưởng và tuyệt vời, hoa lan bốn mùa.

7.     Cảnh Dương: Bãi biển nối tiếng với nhiều bài hát biên thùy dương.

8.     Lăng Cô: Vịnh Lăng Cô (Làng Cò) đã nối tiếng không phải bàn.

9.     Chân Mây: Cảng nước sâu nhất Việt Nam, nhưng ko hiểu vì sao vẫn ít tàu cập bến.
10
11. Khe vàng: Quê tôi đã có một thời từ năm 1985 đến 1995 khai thác vàng ngay tại sân vườn, chỉ cần đi vào rừng 1 km là có vàng….nhưng giờ nhà nước đã cấm.

12. Quê tôi có hải sản và đặt biệt là các loại nắm, bánh lọc….và mắm sò chỉ có Lăng cô mới có….

Dâu tiên xứ Truồi nổi tiếng với hương thơm, vị ngọt thanh. 

Dâu Truồi là loại trái cây đặc sản của một vùng đất phía nam tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ xưa dâu Truồi đã đi vào câu hát dân gian :

"Dâu Truồi vừa ngọt vừa thanh
Em nghiêng giỏ hái tặng anh quả này
ước gì gặp mẹ gặp thầy..."

Hay :

"Xứ Truồi ngọt mít thơm dâu
Anh đi làm rể ở lâu không về."
  

Từ Huế đi theo Quốc lộ1A về phía nam 25km là đến Truồi, một địa danh trù phú nhất của huyện Phú Lộc, với gần 4 vạn dân sống tập trung dọc hai bờ sông Truồi. Nhờ phù sa bồi đắp sau mỗi mùa lụt hằng năm nên vùng đất này quanh năm cây trái sum suê.

Trong nhiều loại trái cây có hương vị ngọt ngào, thơm ngon ở đây thì dâu Truồi được xem là loại trái cây đặc trưng của xứ Truồi mà khách trong nam ra, ngoài bắc vaò đều biết tiếng. Hằng năm cứ đến tháng 5 âm lịch là mùa dâu chín rộ. Trong một chùm dâu sai quả thì quả nào có điểm son là quả ngọt nhất. Vị ngọt của dâu điểm son khó so sánh được với bất cứ vị ngọt của một loại trái cây naò khác. Người ta nói, ăn quả dâu tiên xứ Truồi thì "ngậm mà nghe", nghe hết cái tinh chất của thiên nhiên chắt lọc từ một mạch đất mà tạo nên cái vị ngọt độc đáo kia. Ăn nhiều quả dâu tiên người ta thấy mát ra, và có lẽ vì thế nên thiên nhiên cho loài trái cây này chín đúng vào giữa mùa hè. Những chủ vườn dâu thường bận rộn chăm sóc lúc dâu chín, đề phòng chim chóc phá hại. Khi thu hoạch dâu cây nào, người ta hái hết cây ấy, vì nếu hái lẻ tẻ vài chùm rồi bỏ đó thì cơ hồ như đêm đến loài dơi sẽ tìm tới ăn sạch. Mùa dâu chín, con buôn kéo nhau đến ngã giá từng cây để mua sĩ rồi đem chợ bán. Đây là mặt hàng trái cây bán chạy, có lãi nên rất đắt khách. Xưa nay ở Truồi đến mùa dâu chín, quả dâu được dùng làm quà để đi thăm người thân ở xa ; học trò dùng đi thăm thầy nhân kỳ nghỉ hè ; là lễ vật cúng gia tiên nhân tết Đoan Ngọ. Và đặc biệt trong lễ ăn hỏi giữa nhà trai và nhà gái, gặp mùa dâu chín, quả dâu là lễ vật được" nhân cách hóa" theo một ý nghĩa độc đáo để hai bên su gia có thể gởi gắm nỗi lòng của nhau. Nếu nhà trai ở Truồi đi hỏi vợ vùng khác thì người ta mang theo lễ vật, trong đó có một khay dâu chín mọng để biếu nhà gái với ý nghĩa mong muốn có được cô dâu ngọt ngào, hiền thảo. Nếu nhà trai ở nơi khác hỏi vợ ở Truồi thì nhà gái chọn những quả dâu điểm son để mời nhà trai với ý nghĩa mong muốn "của ngon" này phải được người thưởng thức xứng đáng. Vì thế ở đây mới có câu hát :  

"năm xưa thầy mẹ bảo em 
chọn mua lấy quả dâu tiên xứ Truồi
để nhà anh tới chịu lời"


Quả dâu tiên đã đi vào đời sống tinh thần của người dân xứ Truồi như thế và đang có giá trị của loài cây đặc sản. Do đó, trong phong trào cải tạo vườn tạp để trồng những cây  có giá trị kinh tế cao hiện  nay, nhiều hộ gia đình mạnh dạn tìm cách nhân giống cây dâu tiên để trồng nhiều hơn trong vườn nhà mình. Hy vọng cây dâu tiên sẽ được trồng rộng khắp ở đây và quả dâu tiên xứ Truồi sẽ là mặt hàng trái cây đáp ứng càng nhiều nhu cầu ưa chuộng của khách thập phương, nhất là trong dịp hè ở các điểm tham quan du lịch trong tỉnh Thừa Thiên  Huế. 

 

CHÈ TRUỒI


 
Nói đến thổ sản của xứ Truồi là người ta nghĩ tới hai loại cây trái đặc sản nổi tiếng xưa nay : dâu Truồi và chè Truồi. Khắp mọi miền quê đâu cũng có hai loại cây trái trên, nhưng người  sành thưởng thức hương vị miệt vườn ở đất Thừa Thiên Huế bao giờ cũng kén : đã là dâu phải là dâu Truồi ; đã là chè xanh phải là chè xanh xứ Truồi mới chịu. Trái dâu tiên ở đây cho vào miệng ngọt lịm như thế nào thì ai cũng biết cả rồi. Còn hương vị bát nước chè xanh đem ra mời nhau đậm đà khó quên ra làm sao thì những ai còn xa lạ với xứ này có thể chưa biết hết. 
 
Hồi xưa, tất cả các làng quê dưới chân núi Ấn Lãnh, dọc theo hai bờ sông Hưng Bình đều gọi làng Nam Phổ Cần là làng Truồi. Từ cái làng Truồi "gốc" ấy mà không biết từ bao giờ đã "Truồi hóa" núi Ấn sông Hưng thành núi Truồi sông Truồi và cả một vùng đất rộng người đông này thành địa danh xứ Truồi hiện nay. Giờ đây những ông già bà cả trong vùng vẫn quen gọi làng Nam Phổ Cần là làng Truồi, làng của nhiều loại cây trái, trong đó cây chè xanh được xem là cây đặc sản của một vùng đất vì hương vị độc đáo riêng biệt của nó. Và không ai lạ gì trong các buổi chợ ở đây, người mua chè thường giành mua trên tay nếu mặt hàng này từ làng Truồi đem bán. Cũng khỏi cần hỏi tới hỏi lui, chỉ nhìn qua là biết chè làng Truồi để mua rồi. Khi nâng bát nước chè xanh lên môi nhấp một ngụm, người sành điệu có thể phân biệt được đâu là chè xanh làng Truồi với các làng khác trong vùng giống nhau. Cùng là chè làng Truồi cả, thế mà phải là chè Phủ mới có hương vị độc đáo. Phủ là một khoảnh đất bằng phẳng rộng chừng 6 ha chuyên canh cây chè, tiếp giáp với đồi núi cuối làng. Người đi mua chè lứa của các chủ vườn thường chọn mua cho được chè Phủ. Đã là chè Phủ thì không chê vào đâu được. Cây chè cứ mơn mởn, sây lá đều nhau từ gốc đến ngọn chỉa lên trời. Dưới nắng sớm mai, lá chè xanh vàng đến mát mắt, làm cho những cô gái hái chè cảm thấy "sướng tay", hứng lên hò đưa tình đối đáp với nhau không biết chán là gì. 

Muốn chọn lá chè để nấu uống, người làng Truồi bao giờ cũng chọn lá chè ở chính giữa vườn, nơi cây chè không bị che khuất ở trên. lá chè phải nhỏ bản, có màu vàng non, tươi mà giòn, thì nứoc chè mới cho màu sắc vàng xanh, uống vào hơi chát mà ngọt mãi nơi cổ họng.

Chọn được lá chè vừa ý rồi mà không có nước nấu vừa ý thì cũng bằng không. Nước nấu chè xanh mà dùng nước giếng có chút nhiễm phèn thì coi như bỏ. Bây giờ người ta dùng nước máy đun sôi để pha chè. Còn ngày xưa người ta cho rằng đã là chè Truồi thì phải nấu với nước sông Truồi mới "đúng điệu" của nó.. Và để có nước sông Truồi như thế, người ta phải dùng trái bầu khô, bơi ra chính giữa dòng lấy nước về. Nước nấu bằng nồi đất nung. Chè rữa sạch, vò sơ, cho vào ấm sành. Nước sôi đổ vào lắc đều, chắt bỏ nước đầu, chỉ dùng nước thứ hai. Trong ấm chè không nên thêm gừng, vì mùi gừng sẽ khử mất mùi thơm tự nhiên của chè xanh. Nước chè pha ra cái bát sành để thật nguội uống mới đã cơn khát. Hương của bát nước chè xanh làng Truồi tỏa ra thơm thơm, uống vào thấy chát chát ngọt ngọt, khiến những ai quen dùng cứ nhớ, thành "nghiện, ăn xong mà không có bát nước chè xanh là không chịu được.
Chè xanh làng Truồi lâu nay vẫn được xem là loại nước uống phổ biến đối với mọi thành phần xã hội. Từ ngoài đồng đương mùa gặt hái của nông dân đến các bếp ăn tập thể, các cuộc hội nghị đông người, các nhà hàng ăn uống, cả khách sạn hạng sang ngừơi ta cũng phục vụ nước chè xanh. Gần đây, do tiếp cận với nhiều kênh thông tin, thấy công dụng của chè xanh có khả năng chống nhiễm xạ và phòng tránh một số dạn ung thư ở người, nên chè xanh rất được nhiều người ưa dùng.

Người làng Truồi đi thăm bà con mình ở các nơi khác thường mang theo chục bó chè làm quà. Người các nơi khác đến chơi ở làng Truồi  cũng thường được chủ nhà  biếu"cây nhà lá vườn" ở đây đem về. Đúng như câu tục ngữ"đất có lề quê có thói" là vậy.

Cây chè, hoa chè,bát nước chè xanh đã đi vào thi ca, làm nên bản sắc văn hóa riêng của làng Truồi thì không ai ở Thừa Thiên Huế lại không biết.
 
MÍT TRUỒI


 
  Nếu như dâu là một trong những món ăn được ưa thích của các bạn tuổi “teen”, thì mít lại không phân biệt lứa tuổi, từ các bạn gái thích ăn vặt đến những cụ già răng đã lung lay cũng đều thích, đặc biệt là mít Truồi. Nếu nhìn bề ngoài thì khó mà phân biệt được đâu là mít Truồi, đâu là mít Nam đông, mít Bình Điền….Chỉ khi nào cắt quả mít ra, ta thấy màu vàng rộm, múi vừa phải, hương thơm nồng nàng, thì đó gần như là mít Truồi. Và để chắc chắn hơn, ta nên ăn thử một múi. Nếu như đầu lưỡi của bạn thấy vị ngọt mát, thanh thanh, múi mít mềm mại, và hòa trộn trong đó là “nước mật” ngọt lịm thì  đích thực đó là mít Truồi rồi các bạn ạ!

Cũng như những nơi khác, Truồi có hai loại mít: mít ướt và mít ráo. Mít ráo thì có mít mật, mít dừa, mít đường... Do đó có rất nhiều hương vị để bạn thưởng thức. Các cụ già răng thường hơi yếu nên rất thích ăn mít ướt vì nó mềm hơn. Khi ăn mít ướt người ta còn làm thêm chén muối ớt để tăng thêm sự đậm đà.
Ai đã từng một lần được nếm thử vị ngon ngọt của dâu, mít xứ Truồi thì chắc sẽ không bao giờ quên được hương vị thơm ngon làm say đắm lòng người của hai loại trái cây này. Nếu có dip ghé thăm Huế vào độ tháng bảy, xin mời bạn ghé thăm làng Truồi quê tôi để khám phá và thưởng thức một hương vị đặc trưng của làng Truồi, rất lạ và không thể lẫn vào đâu được.

Tuesday, September 5, 2023

bài 4


TÔI THƯƠNG MIẾNG NƯỚC CHÈ XANH

 

NHỚ HOÀI MIẾNG NƯỚC CHÈ XANH QUÊ NỘI


Bà lão quê Truồi và bó chè tươi truyền thống quê nội

 Trên đường ra Huế và Quảng Trị, trước tiên vợ chồng tôi phải ghé thăm quê nội Truồi. Chỉ có hai đêm ở lại nhà nội cũng là cơ hội cho chúng tôi thăm anh em con chú tôi. Thế mà đúng 40 năm xa quê tính từ cái mốc thời gian 1972 đến nay, tất cả giờ đã thành ông bà nội ngọai cả rồi.














  1. Căn nhà năm xưa cũng chẳng còn. Hình bóng chú tôi những ngày về già khi nội tôi khuất núi, chiều chiều chú thay nội tôi quét sân nay chỉ là hình ảnh còn lại trong tấm hình. Cũng như mọi nơi , xóm nội ở xây dựng lại khác xưa. Nhà từ đường nay xây lại rồi không còn căn nhà cũ nữa. 





  1.   

     

     

     

     

     

    Tôi ra thăm cái am trong 
    xóm. Xưa nội tôi ngày đêm huơng khói. Cái miếu vẫn còn nét cũ rêu phong. Tôi chợt nao lòng khi nhìn sắc  vôi nhợt nhạt của cái am do thiếu người chăm sóc. Sông Truồi vẫn lặng lờ trôi qua trước miếu. Duy hai cây phượng vĩ từ đầu thế kỷ trước mà nội tôi trồng giờ đà mất dấu. Những cơn lụt 'thế kỷ' đã xóa đi sự sống lưu niên -trường đời-ước vọng của nội giờ đã đi theo bóng những người "muôn năm cũ " .

      Tôi chạnh lòng hình dung lại những tàng phượng đỏ thắm mỗi độ hạ về. Ôi làm sao phai mờ trong trí nhớ đứa cháu phương xa hình ảnh mấy tàng phượng hồng từng phủ bóng mát một bến đò Xuân Lai ngày trước. Mỗi dịp xe qua cầu Truồi tôi từng cố ngoái về phía hạ lưu nhìn cho ra hai cây phượng. Chính nơi đó có nhà nội tôi.Tất cả nay chỉ là hoài niệm. Hôm nay đứa cháu có dịp trở về, nay nhà cửa cây cối đều thay đổi. Vợ tôi thì mới về quê chồng lần đầu làm sao biết được bao ý nghĩ trong lòng tôi.
        Về thăm nội lần này, chú thím tôi chẳng còn trên cõi đời. Tôi gặp thím đầu tôi vào lúc được tha ra trại Bình Điền vào năm 1980; cái thời mà bột lộc non phải ăn độn thế cơm. Còn chú tôi thì gặp được đứa cháu lúc gia đình tôi lên đường xa quê hương đi Mỹ vào năm 1995. Nay về lại Truồi vào năm này 2012 tôi thiếu vắng từ ông bà nội đã đành nhưng chú thím tôi không còn để mừng mừng tui tủi gặp nhau sau bao ngày xa vắng. Những bát nhang, khung ảnh người vừa quá vãng, những tấm phướng xóm làng đi đám năm rồi còn luu bên bàn thờ. Tất cả còn mới, ngay cả cái nền nhà giờ cũng mới. Từ đường yên tĩnh, mọi thứ im lìm trước mắt đứa cháu phương xa về thăm lại làng xưa. Một cảm giác vừa xúc động- buồn bã, vừa ngỡ ngàng - bơ vơ dâng lên trong lòng.
    [IMG]
    đò ngang  từ chợ Lộc Điền qua lại bến đò Xuân Lai (xóm  bột)
    gánh nước Chợ Lộc Điền hình từ báo LIFE của Mỹ thập niên 1960

     

    Thím tôi mất sau chú tôi một thời gian ngắn. Nhìn thím trong khung , di ảnh để lại của thím, nét tươi vui như "hi thăm" đứa cháu mới về? Hình ảnh năm xưa khi tôi còn nhỏ từ Quảng trị vô thăm Truồi chợt hiện lên trong trí tôi ...
    Cá hanh


    Một loài cá nước lợ giống cá chép, sống ở các cửa sông, đầm phá. Thịt cá trắng, ngọt và mềm, chế biến được thành nhiều món ăn Cá hanh Truồi do có đầm nước lợ Hà Trung 


     

    ngày ngày, thím tôi hay nấu món cá kho ám mà nội tôi thích ăn. Nội tôi hay ăn ngần ấy món ăn , khi nào vào Truồi tôi cũng thấy vậy...cái mâm gỗ tròn đen , cái tô loại nhọn sâu và nhỏ phần đáy, tô cơm in đôi đũa trắc màu đen. Thím dọn cho Nội trên tấm "ngựa" dày đầu nam.Tôi là đứa cháu 'cưng' từ ngoài xa vô nên được ăn chung với Ôn tôi. Tôi nhớ cách giáo bột lọc rành rọt, những cái bánh bột lọc gói trong suốt thấy cả con tôm sông trong đó. Tôi nhớ mệ tôi- cái yếm đen mặc khi trời hè- lưng mệ khom khom đi xuống bến đò. Ngày lại ngày mệ tôi qua chợ Lộc điền với cái hàng bánh bột loc, mệ tần tảo nuôi chồng đỡ con bao nhiêu năm làm dâu xa xứ.
     

     

     

    Nghề lọc bột là nghề bao đời nay tại quê Truồi . Củ sắn từ những vùng đất trên trung du gần động Truồi hay Nam Đông đem về mấy chợ kế cận cầu Truồi. Dòng nước trong xanh của sông Truồi lảng đảng trôi qua mấy bến nước hai bên sông ngừơi làng nội tôi nối tiếp nhau làm nghề bột lọc. Thời bé nhỏ tôi cứ lầm quê ngoại tôi mới biết nghề lọc bột , té ra vào quê nội mới tận mắt thấy những cục bột lọc trắng ngần tròn trịa , những cái bánh bột lọc gói ngon nhớ đời và cách giáo bột khéo léo của bà nội cùng bà con tôi.
     Tôi lại nhớ tiếng của mấy đứa con chú tôi reo lên , mỗi khi tôi từ Quảng trị vô thăm , chân chưa đến ngõ. Tôi vẫn còn nhớ cái giọng Truồi của đám con chú tôi :

     

     -Anh "phóc" anh "phóc"(phúc) anh 'phoc' vô bây ơi !

     

      Thuơng,Đẩu , Tích ,Mẫn , Sáu , Huờng, Tuyết ...con chú tôi quá nhiều kể không hết...đó là những đứa cháu nội đang ở bên Ôn tôi, còn những đứa cháu nơi khác... trong Lăng cô , trên Huế nữa!
      Giờ những đứa em này đã con bầy cháu lũ.
      Tôi nhớ khi ghé Truồi , chiếc xe quá trễ ! hơn 9 giờ đêm mới đến. Chợ Lộc An trong màn đêm đen ngit chỉ còn mấy đứa em con chú tôi kiên nhẫn đứng chờ chiếc xe đò trễ nãi từ trong nam ra. Cả nhà ríu rít quây quần bên chúng tôi, bàn thờ huơng khói thức cúng đã nguội tàn nhưng vẫn chờ chúng tôi về đến nhà mới dọn xuống.
    các bậc cấp lên Trúc Lâm Thiền Viện
       Bù lại những lúc xa quê, tôi được mấy chú em dẫn đi thăm hồ Truồi khu du lịch mới xây với công trình khá lớn hấp dẫn vì sức hấp dẫn thiên nhiên đến với người thuởng ngoạn. Thiền Viện Trúc Lâm một kiến trúc công phu đồ sộ lồng trong cảnh hùng vĩ của nước non khiến chúng tôi lấy làm ngưỡng mộ.

    [IMG] 
      Chiếc đò máy đưa khách qua chùa. Mặt hồ trong xanh, nước sâu đen thẩm dưới đáy, núi non chớm chở xung quanh. Mũi đò huớng về phía chùa, mái chùa cong cong ẩn hiện dưới mấy tàng cây xanh. Pho tượng Thích Ca trắng xóa lớn dần, lòng khách bồn chồn như đang được đến một cảnh bồng lai tiên cảnh nào đó.


     

     

    Tôi phải trở về nhà từ đường nội tôi. Tôi lại được thuởng thức lại tô bún xáo của Truồi từ đầu xóm mà cái mùi vị nước xáo đã đánh thức khứu giác của tôi năm xưa không lầm vào đâu được! Tôi về không kịp vào mùa dâu. Đứa em dâu suýt xoa:

     

    -dâu mới hết mùa đây eng nờ !

     

     Vợ chồng tôi còn an ủi nhờ vào những chiếc bánh bột lọc gói, thổ sản xứ Truồi mà ! vợ chồng Ái biết ý làm thật nhiều cho vợ chồng tôi ăn để nhớ hoài một lần về quê.

     

    CHÈ TRUỒI 
     
    Và sau hết tôi phải nhắc lại miếng nước chè xanh làm mấy đứa em ở đây thật bất ngờ :
    -A eng qua Mỹ mà cũng còn ghiền nước chè hí?
    -anh thích chớ , mà còn đập vô miếng gừng mới ngon đó nghe !
      Đứa em dâu tất tả ra chợ mua vô nấu cho tôi uống ngay. Sự 'phát hin' vừa bất ngờ vừa lý thú khiến thím ấy vừa chạy đi mua bó chè lá vừa cười vui vẻ.

                         phân biệt bó chè Truồi bên phải: BÓ LÉP HƠN
    Cô em dâu đâu biết rằng tôi biết hương vị chè Truồi từ lâu lắm rồi. Thưở học sinh lớn lên từ Quảng Trị tôi từng uống chè tươi Gio Linh và Mỹ Chánh: những bó chè quê ngoại Quảng Trị lại khác với bó chè làng nội từ cách bó cho đến hương vị. Chè mấy làng ở Truồi cùng cách bó rất khác không để thân cành mà chủ yếu là lá nên bó nó dẹp và ít hơn bó chè QT. Khác với quê nội do tôi bắt chước ngoại "đập vô ít gừng"; rõ ràng tôi vẫn mang theo "quê ngoại" bên mình khi về với nội đó rồi.

      Thú thật những lon bia của Huế,một nền công nghệ mới tạo công ăn việc làm cho quê huơng, tôi cũng trân trọng và đã đánh giá chất lượng của nó thuộc vào loại khá - thơm ngon dịu dàng hơn bia lon Tiger đang được làm tại Sài gòn. Đó là chuyện bia rượu- tiệc tùng, tôi xin tạm bỏ qua một bên.
    [IMG] 
        Tôi xin trở lại miếng nước chè được nấu lên từ lá chè non xanh, từ miếng nước sông quê Truồi. Uống mà huớng lòng về người xưa...hình ảnh nội tôi ngồi trầm tư trên cái phản gõ dày, đen nhánh, bên ấm chè gừng nấu từ nước sông Truồi. Thế mà hơn bốn mươi năm sau đứa cháu năm xưa trở về lại đây, một mình uống nước chè xanh như "uống cạn" dòng suy niệm huớng về quá khứ?

    [IMG]
       bó chè truồi
       Khi hai chúng tôi giã từ, người em dâu không quên bới cho một chai nước chè Truồi để nguội. Lên Huế, tôi không quên cất ngay chai nước vào tủ lạnh. Suốt buổi chiều đến sáng hôm sau tôi chỉ uống chai nước đó thôi.Tôi cảm thấy nó ngon lạ lùng, hết cả cảm giác nóng nực bên ngoài.
       Sau bốn mươi năm, tôi thật lòng xúc động khi thưởng thức lại ngụm nước chè xanh, ngòn ngọt chan chát. Lúc đang uống, tôi tưởng như có một dòng sông quê hương mát rượi, lảng đảng trôi vào hồn mình như đưa tôi về vùng kỷ niệm  thật xa./.
    đinh hoa lư 2012
                           tu bút 2019



  2. Căn nhà năm xưa cũng chẳng còn. Hình bóng chú tôi những ngày về già khi nội tôi khuất núi, chiều chiều chú thay nội tôi quét sân nay chỉ là hình ảnh còn lại trong tấm hình. Cũng như mọi nơi , xóm nội ở xây dựng lại khác xưa. Nhà từ đường nay xây lại rồi không còn căn nhà cũ nữa. 

đinh khắc Thiện...
 
Cám ơn tác giả đã có một hoài niệm rất cảm động về quê hương , tôi cũng đang là một kẻ tha hương - nhưng không cách trở nhiều như tác giả . "Ly hương nhưng không ly tổ ", mấy ai còn nhớ điều tối thiểu mà cha ông đã dạy . Dòng sông Truồi của quê hương tác giả chảy về đầm Cầu hai và đầm Hà trung - quê tôi . Quê tôi trước Rào sau Biển , đồng khô cỏ cháy nhưng chứa đầy những yêu thương . Quê tôi cách Huế chỉ 20km ,nhưng những năm 1972 ,1973 khi còn là một cậu học trò nhỏ ở vùng quê nghèo lên Dinh (Huế) để học trung học Trung Học , tuần nào tôi cũng phải đi đò mất một buổi để về thăm mạ,... tôi đã đọc hầu hết bài viết của tác giả về làng quê - xứ Truồi của anh , cám ơn đã cho tôi thêm một hoài niệm về xứ Huế mà tôi vốn đang mang nặng !


edition by ĐHL   5.9.2023 San Jose USA

No comments:

Post a Comment