Cuối năm 1975 có mấy trại tù cách Làng Nại Cửu Phường khoảng vài cây số (làng này Ái Tử ngó lên hướng núi). Chúng tôi nhờ đi lấy kẽm gai ngoài phi trường cũ nên tôi có đi vô thăm chùa Ái Tử. Có ai đó thấy tôi và nói với gia đình tôi ở Mỹ Tho rằng tôi còn sống. Chuyện là trước đây tôi bị đồn là 'đã chết' nên được "lên bàn thờ" vài tháng. Sau tháng Tư 1975, gia đình mạ tôi từ Mỹ Tho dời hết về vùng Bình Tuy- Động Đền làm rẫy sinh sống. Nghe tin tôi còn sống và đang ở tù tại trại Ái Tử, Mạ tôi mừng quá liền tức tốc vay tiền bạc từ Bình Tuy cùng đứa con trai út, ra tận trại này thăm con.
ĐHL
*
Một ngày nào trên bến cô liêu
Xóm bên sông tiêu điều
Buồn hắt hiu mây chiều
Đò của người thôn nữ
Chờ đưa người viễn xứ
Đưa anh trai phong sương
Đi lính Cộng-Hòa...
Xóm bên sông tiêu điều
Buồn hắt hiu mây chiều
Đò của người thôn nữ
Chờ đưa người viễn xứ
Đưa anh trai phong sương
Đi lính Cộng-Hòa...
(Đò Chiều/ Trúc Phương)
Trại 4 đóng sát bên cái thôn có cái tên rất đẹp là Xuân Khê. Tên thì đẹp nhưng cái thôn này không có người thôn nữ yêu kiều nào để chúng tôi hàng ngày đứng bên này trại ngó qua. Chuyện kể hôm nay rằng Thôn Xuân Khê có ông lão đưa đò tốt bụng.
Những ngày mưa lớn, nước con sông Rào Vịnh từ nguồn Ba Lòng chảy về dâng lên quá mau không cách gì qua được. Toán tù chúng tôi đứng bên thôn Xuân Khê ngó qua trại nhưng không biết làm sao để vượt dòng sông nước đỏ ngầu đang chảy cuồn cuộn?
Bản đồ BTTM VNCH trước 1975 nhờ vào bản đồ này người viết đã phăng ra manh mối con sông mà các trại tù 1, 5, 4, 3 (trong hình Lục GIác) đóng dọc theo con sông Rào Vịnh từ hướng Ba Lòng về, con sông này chảy ra hướng Ái Tử
Con sông Rào Vịnh do nó bắt nguồn từ núi hướng Ba Lòng về tuy không lớn nhưng dài - có thể nó chảy về Triệu Long khi nhìn lại trên bản đồ BTTM VNCH nằm giữa 2 con sông Vĩnh Phước và Sông Ái Tử . Nó có tên Rào Vịnh hướng mút trái trong bản đồ ( các trại tù trong hình lục giác)
(hình từ FB của Đồng Môn NH) Sông Ái Tử chụp từ cầu Ái Tử hiện nay mùa lũ- bắt nguồn từ Rà Vịnh (đèo Ba Lòng ) chảy về hướng Nhan Biều qua Cầu Ái Tử . TỪ Cầu Ga ra hướng Đông Hà khoảng 2 cây số là Cầu Ái Tử. Cầu này nhỏ chỉ vài chục mét, qua khỏi cầu là căn cứ của Mỹ , phía trái là Chùa Sắc Tứ Từ Chùa Sắc Tứ đi ra một cây nữa là qua cái cầu có có con sông này, cầu không tên. Qua cái cầu này là đến cầu Lai Phước
ÔNG LÃO ĐƯA ĐÒ, cái tên chúng tôi đặt cho ông. Do sau chiến tranh, lão còn chiếc đò nhỏ uốn bằng tôn. Hàng ngày tôi thường gặp ông đánh cá trên con sông nước trôi lặng lẽ. Khi nước lũ, Lão giúp chúng tôi qua sông. Mỗi chuyến chỉ đưa năm sáu người. Ông lái đò giỏi làm sao! Chiếc chèo 'cạy' giữa dòng sao thật tài. Nước chảy xiết, cuộn, xoáy nhưng cách chèo của lão sao thật 'ngon ơ'. Hồi hộp, lo lắng nhưng còn nhờ vào lòng tốt của ông lão độc nhất ở đây, không qua thì không được. Không cằn nhằn, kể lể, hết chuyến này, ông lão phải qua lại chở chuyến khác cho đến khi chúng tôi qua hết mới thôi. Hồi hộp quá, khi ra giữa giòng nước xoáy, tôi nhìn màu nước đỏ ngầu, chảy băng băng nhưng nét mặt Lão vẫn bình tĩnh làm sao!
Ông đưa đò hồi cư chỉ sau thời gian trại chúng tôi vừa thành lập. Ông không bao giờ nói gì hay liên lạc, đổi chác gì tù. Chúng tôi hiểu chuyện, tội 'liên hệ với dân' chỉ gây phiền lụy cho ông.
Thôn Xuân Khê có lác đác vài nóc nhà hồi cư. Chúng tôi bên này trại cố ý lắng tai. Thật lạ, chưa bao giờ nghe tiếng chó sủa râm ran hay tiếng gà gáy liên hồi vào lúc sáng sớm? Dần rồi chúng tôi cũng hiểu ra. Dân vừa về với hai bàn tay trắng, mọi sự gầy dựng lên từ con "số KHÔNG" thì làm chi có chó để nuôi? Gà thì chưa lớn thành bầy? Dân về họ sống bằng gì, ra sao? khó lòng trả lời? do chúng tôi chưa bao giờ liên hệ với dân.
Chúng tôi âm thầm cám ơn ông lão đưa đò tốt bụng, giỏi tay chèo nhưng trầm lặng. Ông như một người "câm" ông không nhìn ai nói với người tù nào dù nửa lời? Có nhiều đêm về tôi nằm suy nghĩ có thể ông giúp tù do tấm lòng ông là "dân miền nam" hay ông giúp theo sự yêu cầu của cán bộ TRẠI cũng có?
Mưa qua đi, dòng suối trở lại hiền hoà như mọi ngày. Ông có hai cô con gái, nhưng tác giả xin thưa trước là hai người con gái này không có may mắn trời ban là hai "đóa hoa" miền sơn cước để lắm chàng trai bên trại chúng tôi phải thương thầm trộm nhớ.
Ông Lão giúp đưa đò kể ra cũng lạ đời. Ông đặt tên cho cô chị là "Trút", còn cô em tên "Vi". Như các bạn từng biết: Trút là con thú ăn kiến, có hình dạng xấu xí trong rừng. Trút có mình nhím, đầu chuột trong chuyện đường rừng. Lúc chúng ta gặp nó, con trút hay co mình lại như trái banh. Những cái vi cứng cáp của nó là lớp bảo vệ chắc chắn cho thân hình. Dù bạn có đá nó lăn long lóc cũng không hề hấn gì. Nghe đâu thiên hạ cho trút còn là vị thuốc nam khá tốt. Cũng vì là dược liệu quý của rừng nên trút hiện nay bị con người săn lùng cạn hết, chắc là khó kiếm? Người Quảng Trị, gọi là con TRÚT, nhưng tên của nó là tê tê và trên báo chí người ta còn nói là "TRÚC'" người viết ngang đây xin bỏ qua chuyện này.
Ông đưa đò hồi cư chỉ sau thời gian trại chúng tôi vừa thành lập. Ông không bao giờ nói gì hay liên lạc, đổi chác gì tù. Chúng tôi hiểu chuyện, tội 'liên hệ với dân' chỉ gây phiền lụy cho ông.
Thôn Xuân Khê có lác đác vài nóc nhà hồi cư. Chúng tôi bên này trại cố ý lắng tai. Thật lạ, chưa bao giờ nghe tiếng chó sủa râm ran hay tiếng gà gáy liên hồi vào lúc sáng sớm? Dần rồi chúng tôi cũng hiểu ra. Dân vừa về với hai bàn tay trắng, mọi sự gầy dựng lên từ con "số KHÔNG" thì làm chi có chó để nuôi? Gà thì chưa lớn thành bầy? Dân về họ sống bằng gì, ra sao? khó lòng trả lời? do chúng tôi chưa bao giờ liên hệ với dân.
Chúng tôi âm thầm cám ơn ông lão đưa đò tốt bụng, giỏi tay chèo nhưng trầm lặng. Ông như một người "câm" ông không nhìn ai nói với người tù nào dù nửa lời? Có nhiều đêm về tôi nằm suy nghĩ có thể ông giúp tù do tấm lòng ông là "dân miền nam" hay ông giúp theo sự yêu cầu của cán bộ TRẠI cũng có?
Mưa qua đi, dòng suối trở lại hiền hoà như mọi ngày. Ông có hai cô con gái, nhưng tác giả xin thưa trước là hai người con gái này không có may mắn trời ban là hai "đóa hoa" miền sơn cước để lắm chàng trai bên trại chúng tôi phải thương thầm trộm nhớ.
Ông Lão giúp đưa đò kể ra cũng lạ đời. Ông đặt tên cho cô chị là "Trút", còn cô em tên "Vi". Như các bạn từng biết: Trút là con thú ăn kiến, có hình dạng xấu xí trong rừng. Trút có mình nhím, đầu chuột trong chuyện đường rừng. Lúc chúng ta gặp nó, con trút hay co mình lại như trái banh. Những cái vi cứng cáp của nó là lớp bảo vệ chắc chắn cho thân hình. Dù bạn có đá nó lăn long lóc cũng không hề hấn gì. Nghe đâu thiên hạ cho trút còn là vị thuốc nam khá tốt. Cũng vì là dược liệu quý của rừng nên trút hiện nay bị con người săn lùng cạn hết, chắc là khó kiếm? Người Quảng Trị, gọi là con TRÚT, nhưng tên của nó là tê tê và trên báo chí người ta còn nói là "TRÚC'" người viết ngang đây xin bỏ qua chuyện này.
Tác giả bài này còn nhớ vào năm 1978, khi trại tù chúng tôi bị đưa ra bắc để chặt hạ rừng lim tại huyện Như Xuân Thanh Hoá có giai thoại kể về hai loại thú đó là con kỳ đà và con trút. Lúc đó trong rừng thịt thú hoang nhiều lắm, tù gặp hoài và nhờ chúng mà có chút chất tươi...
*
Trở lại chuyện hai người con gái trong thôn Xuân Khê nói trên. Cũng vì cái số hẩm hiu trời ban cho nên hai chị em Trút và Vi đành chịu vậy. Đành chịu có nghĩa là hai cô thật tình không phải là hai "đóa hoa" nơi vùng sơn cước. Nghĩ lại tội nghiệp thay cho mấy người tù độc thân chưa vợ. Phải chi ông trời ban cho một chút nào "sắc nước hương trời" cho hai cô thôn nữ sắc dáng e lệ, dễ thương để rồi mấy người tù trẻ tuổi đem vào giấc mộng đêm trường? Lãng mạn một ít, nửa thế kỷ đã qua người viết cũng xin tơ tưởng cãi lại thực tế ngày xưa là cứ cho là hai cô 'đẹp mặn mà, là hai đóa hoa nơi vùng thôn dã. Có mất gì đâu, đối với công ơn ông lão đưa đò từng giúp toán tù ngày ấy qua sông về lại trại...
nhưng tác giả xin thưa trước là hai người con gái trong hồi ký đã lãng mạn hóa thành hai "đóa hoa" nơi miền sơn cước như trong hình và cứ cho lắm người tù bên trại chúng tôi phải ...thương thầm trộm nhớ
Dù sao, công ơn của ông lão đưa đò, người cha của hai cô thôn nữ ngày xưa, chúng tôi phải nhớ, nhất là chưa có cơ hội đáp đền. Đó là những ngày mưa lũ, ông là ân nhân cho chúng tôi về lại trại, khỏi cơn ướt át đói lạnh do phải đứng chịu trận chờ cơn nước xuống. Kỷ niệm khó quên do các trại tù Ái Tử chỉ có con sông nhỏ độc nhất này chảy qua. Ăn uống tắm giặt nước non đều từ con suối này. Có những lúc tù tắm ở suối này, đó là lúc mọi người đang trở về thời 'nguyên thuỷ' thì hai chị em Trút và Vi vẫn tỉnh bơ xuống giặt ở đây chẳng biết tìm trốn đi đâu nữa? Dù thế nào chăng nữa tất cả con người về đây, sống chết đều nhờ vào con suối duy nhất này mà thôi. Đám đông tù bên này suối "làm gì thì làm", hai chị em vẫn cúi đầu giặt áo bên kia, hai bóng dáng im lìm theo ngày tháng dần qua bên miền thôn dã cận núi rừng và những đồi sim hoang dại...
Hết những cơn nước lũ Thôn Xuân Khê có thêm một mớ đất phù sa dọc mép con nước quanh co. Có một cặp vợ chồng nghe đâu là nghĩa quân, hồi cư làm nhà gần nương ông Lão. Hai vợ chồng này còn trẻ, nhờ vào phù sa ven bờ, họ trồng được mấy liếp cây kiệu tươi tốt . Mùa đông tháng giá kiệu hợp với khí hậu lạnh. Đứng bên này trại tù trông qua, tôi thấy rất rõ màu xanh của mấy liếp kiệu mọc men theo bờ đất hiếm hoi bồi lên từ dòng nước lượn lờ quanh một thôn nghèo, tĩnh lặng.
***
TÙ CÓ DỊP ĐỀN ƠN DÂN LÀNG
Hè về, nước cạn dần, chỉ có vấn đề thiếu nước chứ không còn lo chuyện lũ nữa. Trại 4 chúng tôi có dịp đền ơn ngoài dự liệu và quá bất ngờ đối với chúng tôi.
Hè về, nước cạn dần, chỉ có vấn đề thiếu nước chứ không còn lo chuyện lũ nữa. Trại 4 chúng tôi có dịp đền ơn ngoài dự liệu và quá bất ngờ đối với chúng tôi.
RI SẮT LÀM PHI TRƯỜNG CĂN CỨ ÁI TỬ
Căn cứ Ái tử quá nhiều tấm ri sắt này . Chúng tôi nhớ những ngày đi nạy ri từ ngoài kia . Những mãng ri khổng lồ dính liền nhau, cong queo ngất ngưỡng do sức nổ của bom đạn ngày trước . Chỉ bằng sức người chúng tôi thi nhau tháo ra, hai người một tấm, gánh về trại. Ngày lại ngày không biết bao nhiêu là số lượng? chúng tôi đã tháo về xây dựng nhà ở. Lớp lót nằm, lớp làm vách, các chốt ri tức là các thanh sắt vuông dài để nối các tấm ri với nhau thì cung cấp cho thợ rèn trong tù làm dao, rựa. Cuối cùng Trại lại chỉ định tù làm cầu cho dân làng.
Thực hiện công trình của Trại trước tiên là làm cái cầu ri từ Trại 4 bắc qua Xuân Khê. Đoạn này hẹp nên cầu không công phu lắm. Nhưng cái cầu từ Thôn hướng về Ái Tử thì to lớn hơn do khúc sông này rộng. Đây chính là cơ hội tuy trong âm thầm giúp cho chúng tôi được làm cái cầu ri cao và dài giúp dân. Thật vậy, nó kết nối hoàn toàn bằng nhiều tấm ri phi trường. Khéo làm sao, 3 trụ chân cầu cùng bằng những tầm ri nối với nhau, dựng cao lên ba bốn mét. Có rất nhiều sợi kẽm gai, tù kiếm từ Căn Cứ Ái Tử, được khéo léo néo vào các trụ cầu. Có những lúc tù từ ba trại 1, 5 và 4- chúng tôi gánh đồ qua cầu, bước chân rầm rập nào khoai nào sắn nặng nề cầu vẫn chịu nỗi.
Trước đây, vào ngày mưa lũ, người dân gấp việc qua sông, phải qua bằng dây kéo. Ngày tù làm xong hai chiếc cầu ri, người Thôn Xuân Khê đỡ khổ nhiều. Số lượng người trong trại rất đông, có một số chuyên nghiệp về công binh, quân cụ của VNCH nên việc xây hai cái cầu ri qua sông này thuận lợi dễ dàng.
Non năm mươi năm qua kể từ cái ngày "Dâu Biển" mấy trại tù hay mấy chiếc CẦU RI đó chắc chắn đã mất dấu và chẳng ai còn nhớ chúng làm gì?
Riêng trong lòng tôi mỗi lần nhớ về một thôn nhỏ đìu hiu, bên trại tù mang tên Ái Tử tôi không bao giờ quên ơn và nhớ mãi bóng dáng Một ông già trầm lặng, hảo tâm, từng can đảm giúp từng toán tù qua sông về lại trại trong cơn nước dữ. Một ấn tượng của tình người từ một ông già có hai người con gái đặc biệt với hai cái tên khá lạ là "Trút và Vi"./.
ĐHL 26/9/2016
San Jose USA
No comments:
Post a Comment