Bài này đúng ra trước đây chỉ viết về bài hát "Chuyến Đò Vĩ Tuyến" của nhạc sĩ Lam Phuơng. Thế nhưng sau này người viết nhờ có dịp đọc về bài thơ "Chia Tay" của Thi sĩ Vũ Hoàng Chương trong lòng lại dâng lên một nỗi xót xa, hoài cảm.
Đọc bài thơ của người thi sĩ, tôi cho rằng ý tưởng bài thơ của Vũ Hoàng Chương có ý lồng vào nội dung của bản nhạc Chuyến Đò Vĩ Tuyến nếu không muốn nói đó chính là một sự tương đồng, tương đắc từ người thi sĩ đến với một bản tân nhạc có trước bài thơ đến 4 năm
THƠ VÀ NHẠC cả hai đáng cùng hướng một đích về trong thời điểm lịch sư là Hiêp Định Geneve 1954...Ước vọng về viễn cἀnh “quân Nam về Thᾰng Long” đᾶ không thành hiện thực, nhưng ca khύc này vẫn được nhiều thế hệ yêu thίch vὶ chứa chan tὶnh cἀm và cό sự nhân vᾰn thấm đẫm trong từng câu hάt.
Nhắc đến Chuyến Đὸ Vῖ Tuyến là nhắc đến giọng hάt Hoàng Oanh. Cho dὺ trước và sau cô đᾶ cό rất nhiều ca sῖ khάc nhau hάt bài này, nhưng giọng hάt dᾳt dào tὶnh cἀm, sự luyến lάy cό chừng mực trong từng câu hάt cὐa Hoàng Oanh đᾶ thể hiện được trὸn vẹn у́ nghῖa cὐa bài hάt. Hᾶy nghe lᾳi, hὶnh như không ai thể hiện tốt hσn giọng hάt oanh vàng này ở câu hάt vừa dỗi hờn, vừa là sự oάn trάch cho thời cuộc đᾶ chia lὶa đôi lứa, nhưng cῦng mang niềm hy vọng về một ngày mai cό thể đόn nhau về để sưởi ấm cōi lὸng nhau:
Sưσng khuya rσi thấm ướt đôi mi
Tim em lᾳnh lẽo như chiều đông ngoài biên thùy
Ai gieo chi khύc hάt lâm ly
Như khσi niềm nhớ cuộc từ ly lὸng nᾶo nὺng ...(trích)
Đò chiều sông lạ tiễn đưa nhau
Gió nấc từng cơn, sóng vật đầu
Hai ngả lênh đênh trời ngụt khói
Người đi, ta biết trở về đâu?
Ta về lơ láo tình thiên hạ
Chiếc bóng người đi tủi dãi dầu
Mặt nước chân bèo nghe nức nở
Duyên tan bèo nước bốn hàng châu
Nắm tay cùng hẹn mai sau
Dòng ngân bắc lại nhịp cầu mong manh
Chừ đây cát bụi tung hoành
Chông gai mười cõi chênh vênh thế cờ
Một đêm quán nước trăng mờ
Kề hương tựa phấn những ngờ chiêm bao
Gió xuân cười gượng bông đào
Lỏng tay vòng ngọc, hoen bào giọt châu
Cuối thôn gà giục sáng từ lâu...
Hết một đêm gần... Thôi, xa nhau!
Vĩnh biệt đây chăng? Rằng tạm biệt;
Mà sao bến vắng nặng mây sầu?
Nhưng thôi, thôi cũng đừng lưu luyến!
Đời loạn còn chi đẹp nữa đâu.
Dứt áo cho tình ta đẹp nhé!
Non cao ngàn thuở nhớ sông sâu.
Tương-Giang kẻ cuối người đầu [*]
Vu-San mưa rối mây nhầu tóc tơ
Sườn non vắng vẻ càng thơ
Nước sông quằn quại mong chờ càng xinh
[**] Rồi mai thiên hạ thái bình
Còn dâu xanh bến, Cao-Đình còn xuân
Còn trăng hai mảnh xa gần
Còn soi bờ liễu sông Tần vẹn gương
Vũ Hoàng Chương
君在湘江頭
妾 在 湘 江 尾
相 思 不 相 見
同 飲 相 江 水
Quân tại Tương Giang đầu
Thiếp tại Tương Giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương Giang thủy
(Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau không thấy mặt
Cùng uống nước sông Tương)
Tiễn đưa một chén quan hà
Xuân đình
thoắt đã đổi ra Cao đình
Sông Tần một
dải xanh xanh
Loi thoi bờ
liễu mấy cành Dương quan
Cầm tay dài
thở ngắn than
Chia phôi
ngừng chén hợp tan nghẹn lời
(câu 1499 đến 1504) Kiều
"Xuân
Ðình" chỉ nơi vui vẻ. Thư của Giản Văn Ðế nhà Lương đáp Trương
Tán có câu: "Xuân đình lạc cảnh" (cảnh
vui ở Xuân đình). "Cao đình" là một hòn núi ở tỉnh
Chiết Giang, phía đông bắc huyện Hàng, nơi đường đi qua lại như một giáp giới
giữa hai địa phương được xem là chỗ nghỉ chân và làm nơi tiễn biệt nhau. Thơ cổ
có câu: "Cao đình tương biệt xứ" tức nơi biệt nhau ở Cao
Ðình.
"Sông Tần" tức Tần Thuỷ, một nhánh ở sông Vị Thuỷ, thuộc
tỉnh Thiểm Tây, ý nói nơi chia tay nhau, người ở bên này sông, người ở bên kia
sông. Lấy ý câu thơ cổ: "Ðạo vọng Tần xuyên, can trường đoạn tuyệt".
(Dõi trông nước sông Tần mà gan ruột đứt từng khúc). Có bản giảng sông Tần là
sông Tần Hoài, một con sông chảy ở miền Giang Tô, quê ở của Thúc Sinh. Tác
giả "Truyện
Kiều" dựa theo bài "Hoài thượng biệt hữu
nhân" (trên sông Hoài, từ biệt người bạn) của
Trịnh Cốc, thi hào đời nhà Ðường:
Dương Tử giang đầu dương liễu xuân
Dương hoa
sầu sát độ giang nhân
Sổ thanh
phong địch ly đình vãn
Quân hướng
Tiêu tương ngã hướng Tần
Nghĩa:
Sông Dương ngàn liễu đua tươi
Hoa dương
buồn chết dạ người sang sông
Ðình hôm
tiếng sáo não nùng
Ai đi bến
Sở, tôi trông đường Tần
(Bản dịch của Ngô Tất Tố)
nguồn
Đò chiều sông lạ tiễn đưa nhau
Gió nấc từng cơn, sóng vật đầu
Hai ngả lênh đênh trời ngụt khói
Người đi, ta biết trở về đâu?
Lịch sử đã phủ phàng cắt đứt bao niềm mơ ước của người con gái đó. Cũng như bao triệu tâm hồn của người miền Bắc di cư tìm ánh sáng tự do, mơ ngày giải phóng miền bắc khỏi ách cai trị của Chủ Nghĩa Độc Tài.
Ta về lơ láo tình thiên hạ
Chiếc bóng người đi tủi dãi dầu
Mặt nước chân bèo nghe nức nở
Duyên tan bèo nước bốn hàng châu...
Giá như ước mơ đó trở thành hiện thực cho miền mam, vận nước không quá điêu tàn, trơ tráo? Nếu bạn bè đồng minh chí tình, trọn nghĩa, thì quê hương xưa đâu phải chịu cảnh đau lòng của hàng hàng lớp lớp dân mình phải bỏ mình trong biển lạnh hay rừng sâu núi thẳm? đâu phải chịu đựng sự dày xéo của lòng người tham tàn, nham hiểm, hà khắc, độc tài?
Và cũng giá như lời nguyền năm xưa của người con gái lúc đưa ngừơi yêu qua bờ Vĩ Tuyến đã thành sự thật thì quê Mẹ làm gì phải lo sợ mối đại hoạ của Bắc Thuộc Lần Tư?
Nắm tay cùng hẹn mai sau
Dòng ngân bắc lại nhịp cầu mong manh
Chừ đây cát bụi tung hoành
Chông gai mười cõi chênh vênh thế cờ...
Lam Phuơng đã khéo dẫn dắt tâm sự này trước thi sĩ Vũ Hoàng Chương vài năm. Nhưng tâm tư đó không nằm trong vần thơ mà trong điệu nhạc rumba của bài hát "Chuyến Đò Vĩ Tuyến". Ôi đẹp sao những ước mơ của người di cư từ miền bắc được về với phuơng nam rồi cùng nhận chân ra quả là một miền đất hứa của nắng đẹp hiền hòa dưới chế độ cộng hòa đầy nhân vị...
Hò ... hớ .... hò .... hơ ...
Em và cùng anh xây một nhịp cầu
Để mai đây quân Nam về Thăng Long
Đem thanh bình sưởi ấm muôn lòng
Ai còn một tấm lòng với quê hương cũng không khỏi đau lòng, thương cho dân tộc đang băng hoại dần mòn nhiều mặt. Cớ sao hôm nay dân ta phải chịu nô lệ dưới sức ép của đế quốc Tàu Đỏ qua nhiều hình thức...?
Càng thương cho thân phận hay nỗi niềm người con gái năm xưa bên bờ Vĩ Tuyến, nó tượng trưng cho ước mơ của gần một triệu ngừơi miền Bắc di cư, ra đi tránh cảnh "điêu linh nơi quê nhà đang chìm đắm" hay những âm thầm chịu đựng của bao triệu người ở lại.
Tương-Giang kẻ cuối người đầu
Vu-San mưa rối mây nhầu tóc tơ
Sườn non vắng vẻ càng thơ
Nước sông quằn quại mong chờ càng xinh [vhc]
Sông Bến Hải từng chứng kiến bao niềm đau chia cắt; nhưng giờ đây chúng ta càng xót đau cho hiện tại, càng hờn căm bao phường 'giá áo túi cơm', mãi quốc cầu vinh bỏ quên quá khứ cùng lịch sử oai hùng non sông đất Việt.
Dòng sông Bến Hải vẫn còn tên khi đất nước thân yêu vẫn hoài vẫy tay tiễn biệt bao đứa con yêu tổ quốc muốn rời quê hương ra đi do không thể ở chung với những tầng lớp cầm quyền bán nước, nhũng nhiễu dân lành. Mẹ VN biết khi nào có ngày hân hoan đón mừng những người con thân yêu trở về dựng xây cố quốc
Câu trả lời rõ ràng nhất, khi thế lực cầm quyền bạo ngược gian tham không còn, khi những cái bóng đầy ma lực của Tàu Đỏ phải cuốn vó RA ĐI hay tiêu tan trong đầu óc con người lãnh đạo.
Đọc lại bài thơ "Chia Tay" của thi sĩ Vũ hoàng Chuơng, chúng ta có thể tin ông đã gửi gắm tâm sự này vào phần cuối bài:
Rồi mai thiên hạ thái bình
Còn dâu xanh bến, Cao-Đình còn xuân
Còn trăng hai mảnh xa gần
Còn soi bờ liễu sông Tần vẹn gương ./.
Mong thay!
No comments:
Post a Comment