TỪ GRAPES OF WRATH CỦA JOHN E. STEINBECK TỚI "STRAWBERRY OF WRATH" TẠI SALINAS
https://www.envio.org.ni/articulo/3825
BY JOSE
LUIS ROCHA
Cánh đồng dâu tây mãi mãi phải cần những người lao động không có giấy tờ, tại sao?
José
Luis Rocha đại diện cho Mễ tây Cơ tại Thế vận hội Olympic về môn lặn vào năm
1984. Rocha sinh ra tại Thành phố New México. Ông từng học tại Đại học Auburn
nơi này ông từng là thành viên của Đội Bơi và Lặn từ năm 1986 đến năm 1989.
Rocha có danh hiệu là "Người Mỹ toàn diện" (All American) đã đoạt được
chức vô địch Thể thao Đại học Quốc gia vào năm 1987 về Giải vô địch quốc gia của
Hiệp hội (NCAA)
Ông tốt nghiệp Đại Học Auburn (tiểu bang Alabama) năm 1989 với văn bằng cử nhân Tư pháp Hình sự sau chuyển đến Nam Florida, nơi ông kết hôn với nữ Vận động viên lặn Olympic Mỹ là Michele Mitchell cùng trở thành Công dân Hoa Kỳ.
Rocha làm cảnh sát tại Sở cảnh sát
Delray Beach ở Quận Palm Beach, sau đó cùng gia đình chuyển đến Tucson, Arizona tiếp tục làm cảnh sát. Ông gia nhập Quân đội Hoa Kỳ vào năm 2007
***
Khi tôi (Jose Luis Rocha) đến Thung lũng Salinas của
California, trước mắt tôi tràn ngập một biển dâu tây bao la bát ngát. Nhìn kỹ hơn, tôi mới hiểu ra những
con số trong một nền kinh tế “khao khát dâu tây tươi” và tại sao phải phụ thuộc vào lực lượng lao
động rẻ và cần mẩn như thế kia. Đến thăm nhà của một
số người hái lượm, tôi mới thấy họ tiểu biểu cho sự đấu tranh cùng thay đổi.
Thung
lũng Salinas từng
nổi tiếng trên thế giới nhờ một người đoạt giải Nobel về văn học đó là văn hào John
Steinbeck có gốc từ California và là người từng được ngưỡng mộ và bảo vệ truyền thống Hispano-Mexico ngay cả khi Hoa Kỳ đã sáp nhập khu vực đó vào năm 1848.. California từng mệnh danh là nữ
hoàng dâu tây Trong cuốn East of Eden,của văn hào Steinbeck khi nhà văn mô tả lớp đất mặt của Thung lũng Salinas sâu và màu mỡ nơi chỉ cần một
mùa hè mưa để phủ đầy rau và hoa. Trước đó khá lâu nơi đây từng là một khu rừng gỗ đỏ (red wood).
Ngày nay, vùng đất này đã hóa thành hàng hàng lớp lớp dải dâu
tây dài, những làn sóng dâu tây trông chẳng khác gì con sóng của Thái Bình
Dương sát cạnh. Chúng kéo dài như những hàng dây khổng lồ kề nhau và không có một
hàng nào che khuất tầm nhìn hoặc mất mát ánh nắng mùa hè. Hàng nghìn người nhập cư gốc Mỹ Latinh, phần lớn là người Mexico,
làm việc trên những cánh đồng rộng lớn đó. Một số đã định cư bền vững tại các cộng
đồng dân cư Salinas và Watsonville, đó là những quận chiếm có 38% diện tích trồng
dâu tây của California và sản xuất một nửa tổng số dâu tây tiêu thụ ở Mỹ.
Số người khác họ chỉ đến trong thời gian ngắn để trồng hoặc
thu hoạch. Họ được trả lương theo giờ và theo hộp dâu
vd: 4,75 USD một giờ và 0,99 USD một hộp (trước đây). Họ làm việc ít nhất 10 giờ mỗi ngày, khom người hay ngồi xổm giữa
các hàng dâu. Tất cả nhóm thợ này hoàn toàn nhận thức
ra rằng họ đang tạo cho California giàu có, một tiểu bang mà theo Cơ quan Thống
kê Nông nghiệp Quốc gia Hoa Kỳ cho rằng 67% diện tích trồng dâu tây ở Mỹ và 88%
sản lượng của họ trong năm 2006, nhờ năng suất hàng năm là 59.000 pound trên 1mẫu
tây. Con số này gấp đôi mức trung bình 28.000 pound của
Florida, đối thủ gần nhất của Cali. California đạt được năng suất này nhờ vào sự
thuận lợi về mặt địa lý và địa chất. Đất cát ven biển
đảm bảo thoát nước tốt và do đó tránh được nồng độ muối và ẩm ướt. Với khí hậu trong lành, các cánh đồng không phải chịu nhiệt độ khắc
nghiệt như nơi khác. California hiếm khi hứng chịu
cái nắng nóng gay gắt của mùa hè khiến cây chết héo theo đúng nghĩa đen và làm
giảm chất lượng quả hoặc sương giá mùa đông tệ hại làm chậm thu hoạch do kích
thích lá kém năng suất. Gặp điều kiện thời tiết như thế thì thời gian sẽ ngắn
hơn nhiều so với các bang khác. Hơn nữa, Salinas
không có làn mưa xối xả - do mưa to là “nụ hôn của thần chết” vào mùa thu hoạch
– đó là một đặc điểm giúp đảm bảo cho một năng cao nhất, có thể xem là tốt nhất
trên thế giới. Khí hậu của California cho phép trồng
dâu tây từ tháng 2 đến tháng 12, trong khi ở Florida mùa trồng trọt chỉ kéo dài
ba tháng, ở Oregon tối đa là bảy tuần và ở những vùng khác của Hoa kỳ, thậm chí
có thể trồng được bốn tuần…
Thị trường dâu tây quả khó tính. Dâu tây để lâu hơn mức cần chỉ một ngày sẽ mất đi hương vị theo yêu cầu của thị trường. Muốn thế phải duy trì công hái liên tục (chứ không thể hái cùng một lần để ủ cho chín) để duy trì năng suất cao: do cây đang thu hoạch vẫn tiếp tục ra hoa. Từ những yếu tố khó khăn tiểu tiết như thế, số lượng công nhân nông nghiệp ở California mới tăng gấp đôi vào thời kỳ thu hoạch cao điểm, vd từ 225.000 lên 450.000. Vào thời điểm thu hoạch, một trang trại nhỏ có 14 mẫu dâu tây cần thuê hơn 28 người hái, một trang trại vừa có diện tích 32 mẫu cần 64 và một trang trại lớn có diện tích 100 mẫu cần 200 người. Đó là tất cả những lợi thế giải thích tại sao California đã góp phần nâng tổng sản lượng dâu tây toàn bộ Hoa Kỳ từ 9% năm 1946 lên 36% năm 1953, rồi 74% năm 1988 và 88% năm 2006… Nhưng tất cả những lợi thế đó sẽ có nhược điểm: nếu muốn duy trì số lượng công nhân hái lượm này, họ không có lựa chọn nào khác ngoài việc thương lượng với công nhân, như họ đã làm vào những năm 1970s. Ngoài ra, giới chủ thường xuyên tận dụng lợi thế của làn sóng nhập cư ồ ạt. (dĩ nhiên phần nhiều đêu không giấy tờ)
Chúng ta hiểu Hệ
thống lao động tất cả đều hướng tới lợi
nhuận Nhà nhân chủng học Hoa Kỳ có tên là Miriam
Wells từng nói về “chế độ thị trường lao động” khi đề cập đến các hạn chế chính sách đối với thị trường lao động tại một thời điểm
nhất định nào đó.
Chế độ thị trường lao động phản ánh và ảnh hưởng đến lợi ích giai cấp, nguồn nhân lực và chiến lược ở mỗi cấp độ sản xuất, định
hình đáng kể lợi thế tương đối của mỗi giai cấp trong một quá trình lao động cụ
thể. Đôi khi, hai chế độ có thể cùng tồn tại trong cùng một quốc gia, hoặc chế
độ này có thể chuyển sang chế độ kia với tốc độ chóng mặt. Sự cùng tồn tại của
các chế độ khác nhau đã được Eric Wolf
ghi lại trong cuốn Czarist Russia. Hệ thống nông nô chiếm ưu thế ở các tỉnh
phía nam, nơi đất đen đảm bảo sản xuất dồi dào và sinh lợi. Ở đó, các lãnh chúa
phong kiến thích có chư hầu dưới sự kiểm soát của họ để canh tác đất đai theo
cách của họ. Ở các tỉnh phía Bắc, nơi độ phì của đất bị suy giảm, hệ thống trả
bằng hiện vật hoặc bằng tiền đã được áp dụng cho việc sử dụng đất của họ. Ở những
tỉnh đó, công việc trong ngành sản xuất hoặc công nghiệp quy mô nhỏ ở thành phố
đã giúp cho việc thanh toán bằng tiền hoặc hiện vật trở nên khả thi. Định nghĩa
của hệ thống được xác định bởi những gì phù hợp nhất với giới tinh hoa cầm đầu xã hội. Trong trường hợp của Nga,
sự phân chia mang tính chất không gian. Trong trường hợp của California, chúng
ta có thể theo dõi sự phân biệt như con lắc và thời gian. Trước Thế chiến II, đặc biệt là
trong thời kỳ Đại suy thoái
Kinh Tế 1929-33,
một hệ thống chia sẻ thu hoạch với người lao động đã ngự trị. Một sự thay đổi
quyết định sang hệ thống trả lương đã được áp dụng khi ngành công nghiệp dâu
tây trở nên có lợi nhuận bất thường và Chương
trình Bracero đã cung cấp cho nhiều công nhân có kỷ luật và giá rẻ theo hợp
đồng ngắn hạn. Chương trình đó là liều thuốc giải độc tốt nhất cho các cuộc đình
công và các hình thức áp chế
khác của công đoàn. Chìa khóa để kiếm lợi nhuận đó là Kiểm soát lực lượng lao động Giữa những năm sáu mươi và cuối những năm bảy mươi, thời kỳ đỉnh cao
sức mạnh của các hiệp hội công nhân nông
trại, chế độ chia sẻ thu hoạch lại được mở rộng: doanh nghiệp ủy thác việc
trồng trọt, bảo trì và thu hoạch cho các gia đình để họ có khả năng tham gia vào những lợi
ích cuối cùng. . Kết quả thu hoạch và thương mại hóa đã đặt ra những giới hạn
đối với nhu cầu của họ. Trong thời kỳ đó, có tới một nửa số người sản xuất và
đất đai thuộc chế độ chia chác
phần thu hoạch.
Khi làn sóng di cư của những người lao động không có giấy
tờ trở nên rầm rộ hơn,
làm suy yếu các công đoàn, chế độ tiền lương đã phục hồi gần như toàn bộ phạm
vi bảo hiểm của nó. Những thay đổi chế độ này đã khẳng định rằng trồng dâu tây
phụ thuộc rất lớn vào cung lao động. Trong quá trình thu hoạch, kiểm soát lực lượng lao động
là rất quan trọng cho
lợi nhuận do
lao động là chi phí chính yếu.
Giá cả, sự
đồng bộ và quá trình thực
hiện cẩn mực đã trở
thành yếu tố chính quyết định cho lợi nhuận. Việc sửa đổi các yếu tố khác vẫn nằm ngoài tầm
kiểm soát của nông dân. Dâu tây hay các sản phẩm nông nghiệp nói chung có nhu cầu tương đối ít co giãn: nó tăng trưởng rất ít ngay cả khi
giá giảm hoặc thu nhập của người tiêu dùng tăng. Hơn nữa, sự khác biệt giá cả sản phẩm càng làm khó thêm sự tiếp cận thị trường để tăng nhu cầu tiêu thụ và giới chủ càng không thể kiểm soát giá
đầu vào hoặc không bao giờ muốn
tăng giá dâu tây bằng cách hạn chế nguồn cung của họ. Việc không thể tăng giá
trong một thị trường cạnh tranh cao hay giảm chi phí đầu vào mà việc bán hàng nằm trong tay các
nhà cung cấp tín dụng và hóa chất nông nghiệp hùng mạnh sẽ tiếp tục làm tăng mối quan tâm của giới chủ đối với đổi mới công nghệ nâng cao năng
suất hay
thao túng chi phí lao động.
Chuyện-
DO YÊU CẦU thu hoạch Dâu tây CẦN HÁI BẰNG
TAY mà thôi
Nói về đổi mới công nghệ đã làm giảm nhu cầu lao động có tay nghề trong ngành nông nghiệp Hoa Kỳ nói chung. Nhưng sự yêu thích của người dân đối với dâu tây tươi và thị trường ngày càng mở rộng có nghĩa là, không giống như các loại cây trồng khác, dâu tây ngày càng đòi hỏi nhiều lao động hơn. Tính mỏng manh của quả - dễ bị bầm tím - cũng như điểm trưởng thành liên tiếp, độ dài của mùa hái, khó khăn trong việc loại bỏ lớp lá và thân khỏi quả đều đã ngăn cản việc áp dụng máy thu hoạch cơ học phá hủy thực vật. Để giữ được hình dạng tươi tốt, dâu tươi được hái bằng cách xoắn cuống cho nó lìa cành chứ không kéo (bứt). Quả mọng phải được lựa chọn theo kích thước, độ cứng, hình dạng và màu sắc phù hợp. Việc chiều chuộng này đòi hỏi bàn tay yêu thương của người làm vườn hơn là bàn tay “người trồng trọt” thô kệch. Do tất cả những nhu cầu này về lao động con người chứ không phải lao động cơ giới, California thu hút nhiều lao động nông nghiệp hơn phần còn lại của Hoa Kỳ cộng lại. dâu tây California ở thế giới và người Latin ở California Bất kỳ chế độ thị trường lao động nông nghiệp nào ở California đều có đặc điểm là luôn khao khát người lao động. Trong năm 2000-2006, dân số gốc La tinh ở California đã tăng từ 11 triệu (32% tổng dân số của bang) lên 13 triệu (35,5%). Ở khu vực nhỏ như Salinas chẳng hạn, con số này đã tăng vọt từ dưới 97.000 (64%) lên 100.000 (71,3%). California hiện có 30% tổng số người gốc Latin sống ở Hoa Kỳ, tiếp theo là Texas với 19%, Florida với 8% và New York với 7%. Chỉ có 44% dân số gốc Latinh ở New Mexico vượt quá tỷ lệ phần trăm của California. Sự gia tăng lực lượng lao động người Latinh đã giúp củng cố vị thế của Mỹ là nước trồng dâu tây lớn nhất thế giới. Tiếp theo là Tây Ban Nha với sản lượng thấp hơn ba lần. Ý chiếm vị trí thứ tám và chỉ riêng California sản xuất nhiều dâu tây hơn cả Tây Ban Nha và Ý cộng lại.
Từ năm 1970 đến năm 2006, sản lượng dâu tây ở Hoa Kỳ đã tăng từ
496 triệu bảng lên hơn 2,4 tỷ bảng, mức tăng này cùng với việc giá mỗi pound
tăng 0,41 USD có nghĩa là giá trị sản xuất đã tăng từ 106,6 triệu USD lên 1,515
tỷ USD. trong cùng thời gian đó. Trong 10 năm qua, diện tích đất trồng dâu tây
đã tăng hơn 10.000 mẫu Anh ở California—chỉ riêng ở Salinas và Watsonville là
2.463 mẫu. Lực lượng lao động nhập cư chủ
yếu không có giấy tờ đã giúp thực hiện được kỳ tích này, tuy nhiên diện
tích canh tác đã tăng hơn nhiều so với dân số ở hai quận Salinas và Watsonville...
bảo tàng nhà văn John E. Steinbeck
National Steinbeck Center
TỪ CHÙM NHO PHẪN NỘ TỚI DÂU TÂY PHẪN NỘ
Tại sao lại sợ hợp pháp hóa những người nhập cư không giấy tờ?
Phải chăng duy trì tình trạng bất hợp pháp là một ẩn ý? Trước đây Để đáp ứng nhu cầu khổng lồ về dâu tây của
Hoa Kỳ, 248 triệu pound dâu tây Mexico từng được nhập khẩu vào năm 2006, một số
lượng vượt quá tổng lượng dâu tây xuất cảng của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, so ra việc
nhập khẩu dâu tây từ Mỹ Latinh vào thị trường dâu tây Hoa Kỳ vẫn có lợi hơn. Tại
sao không hợp pháp hóa những người đã nhập cư lậu ở đó? Câu trả lời- khi hợp pháp hóa nói khác đi khi số người bất hợp pháp này có đủ giấy
tờ rồi thì các nông trại chỉ giữ người lao động chỉ trong
một thời gian thôi. Do khi họ vui sướng được hợp pháp (có giấy tờ), không sớm thì muộn họ sẽ
rời bỏ ngành nông nghiệp để tìm việc làm khác được trả lương cao hơn. Họ sẽ được
thay thế bởi những người lao động nhập cư mới dĩ nhiên phần đông là không có giấy
tờ (undocumented immigrants). Các chuyên gia cho rằng,
trong trường hợp đó sẽ cần khoảng 180.000 đến 500.000 công nhân mỗi năm để thay
thế những người bỏ đi. Giải pháp cuối cùng là tìm cách giữ lấy tình trạng hiện
tại: số lớn lao động không giấy tờ sẽ
khiến họ bị 'giam giữ' trong các công việc với đồng lương rẻ mạt cùng những công việc ít ai phát hiện họ hơn. Hai chính phủ Mexico và Hoa Kỳ cố gắng tái ban hành các chương trình tạm thời dành
cho những người nhập cư có hành vi tốt: tức là những người chỉ đến Mỹ, làm việc và trở về mà
không gây rắc rối gì. Quan điểm như vậy đã quên đi sự phụ thuộc ngày càng tăng
của hệ thống an sinh xã hội vào người lao động gốc Latinh. Người Latinh, dân số trẻ và đang phát triển, hiện chiếm 14% dân số
Hoa Kỳ và 13% lực lượng lao động. Hơn một phần ba
trong số 40 triệu người Latin ở Mỹ dưới 18 tuổi. Trung tâm Tây Ban Nha Pew tính
toán rằng đến năm 2050, người gốc Latinh sẽ tăng gấp đôi tỷ trọng nhân khẩu học
và tỷ trọng của họ trong lực lượng lao động, chiếm 1/4 lực lượng lao động trên
toàn nước Mỹ ngay cả khi dòng di cư giảm. Sự tăng trưởng
của dân số Latino sẽ làm tăng vai trò của họ trong nền kinh tế và tài trợ cho
an sinh xã hội. Người ta ước tính rằng từ năm 2006 đến
năm 2050, lực lượng lao động Hoa Kỳ sẽ tăng từ 143 triệu lên 182 triệu tức là thêm
39 triệu. Trong cùng thời gian này, lực lượng lao động
người Latinh sẽ tăng từ 19 triệu lên 46 triệu, tăng trưởng 27 triệu. Khi dân số
cao tuổi tăng từ 35 triệu lên 77 triệu, tỷ lệ phụ thuộc vào người lao động sẽ tăng. Tỷ lệ công nhân 4,1 trên mỗi người nghỉ hưu có thể giảm xuống 2,7
vào năm 2025 và 2,4 vào năm 2050. Số lượng công nhân gốc Latinh hỗ trợ tình trạng
lão hóa càng tăng đang tăng lên giúp cho hệ thống an sinh xã hội — trừ khi được
cải cách nghiêm túc — thật sự sẽ cần họ nhiều hơn bây giờ. Tại sao phải sợ họ và đóng cửa cơ hội lại với họ- những kẻ nhập cư
không giấy tờ nhưng có lợi cuối cùng? Dâu tây phẫn nộ là có do số người có lợi
này đang bị thanh lọc và bị trả lương quá thấp, những người lao động nhập cư sống
bên lề cuộc đời. Càng lúc càng nhận thức ra rằng quyền của họ phải có và nên tôn
trọng họ. Trong phần cuối buổi phỏng vấn của chúng tôi, Xochitl Martínez, ở Líderes Campesinas, đã đưa ra lời khuyên cuối
cùng: “Bạn nên biết chính John Steinbeck, người có viện bảo tàng ở lối vào thị
trấn Salinas, đã viết trong cuốn Red Pony, cuốn sách của
Steinbeck từng đề cập đến quyền của chúng ta với tư cách là người lao động.
Bây giờ tôi đang đọc Grapes
of Wrath. Tôi khuyên tất cả các bạn nên đọc nó nếu
muốn biết cuộc đấu tranh của những người công nhân nông nghiệp ở California từng
xảy ra ra sao.”
Jose Luis Rocha
ĐHL biên dịch
Revista Envío - Strawberry Fields and Undocumented Workers Forever? (envio.org.ni)
No comments:
Post a Comment