Mật Ngọt Bao Đời của rừng U Minh
January 7, 2023 (trích báo Người Việt)
CÀ MAU, Việt Nam (NV) – Mùa Xuân hoa nở, cũng là mùa người thợ
rừng gác kèo ăn ong. Rừng U Minh, thảm rừng tràm đước rộng gấp bốn lần đảo quốc
Singapore, mang trong lòng những tài nguyên quý giá đã thành huyền thoại được
ghi lại trong “Hương Rừng Cà Mau,” chuyện trào phúng “Bác Ba Phi,” tiểu thuyết
“Đất Rừng Phương Nam”…
Đường vô rừng U Minh
Hạ, con kênh ranh giữa vùng đệm và vùng lõi bảo vệ nghiêm ngặt. (Hình: Thư
Khôi)
Mật, sáp ong U Minh là
đặc sản góp phần tạo ra thương cảng Rạch Giá phồn thịnh. Rừng U Minh giờ chỉ
còn phế tích nhưng nghề gác kèo ong và đoàn Phong Ngạn vẫn sống, mật ong U Minh
vẫn lóng lánh thơm lừng.
Trong những huyền
thoại của U Minh có truyện ngắn “Hương Rừng” của nhà văn Sơn Nam, về loài ong
ngũ sắc cho loại mật kỳ diệu có thể luyện thành phương thuốc chữa căn bệnh đứng
đầu tứ chứng nan y. Một vị ngự y triều Nguyễn đã từ quan ẩn mình trong góc rừng
U Minh tìm ong luyện thuốc chữa bệnh cho cô con gái có sắc đẹp ma mị. Chàng thợ
rừng giỏi nhất U Minh đã tìm ra loài ong quý, mở ra mối tình như chuyện liêu
trai. Nghề gác kèo ăn ong ở U Minh không chỉ là cách khai thác lâm thổ sản độc
đáo mà còn là án văn ly kỳ, huyền hoặc.
Gập ghềnh “đột nhập”
rừng U Minh Hạ
Theo địa bộ triều
Nguyễn thời Thiệu Trị, vùng Long Xuyên có thuế Hoàng Lạp (sáp ong). Sáp là thổ
sản quý để các nước lân bang tiến cống, các địa phương tiến nạp cho triều
Nguyễn.
Cũng theo Sơn Nam “Sáp
là nguồn lợi làm cho xứ Rạch Giá (bao gồm cả Cà Mau, Bạc Liêu) nổi danh (người
Miên gọi là vùng Kramuon – Sor tức là xứ sáp trắng) vì thời xưa ổ ong bám vào
cây tràm, lâu ngày rụng xuống rồi trôi trên sông, không người vớt.”
Trải qua bao cuộc biến
thiên của lịch sử, thiên tai và tác động xâm thực củ con người, cháy rừng, rừng
U Minh 2,000 cây số vuông giờ chỉ còn lại hai Vườn Quốc Gia U Minh Thượng (Kiên
Giang) và U Minh Hạ (Cà Mau) mỗi nơi trên 8,000 hécta vùng lỏi và hơn 30,000
hécta vùng đệm. Đất rừng thu hẹp chỉ còn 1/10 ngày trước nhưng nguồn mật ong U Minh
vẫn giàu, mỗi năm riêng U Minh Hạ đã khai thác hơn 1,000 tấn mật ong nguyên
chất, tinh khiết. Đó chính là nhờ nghề gác kèo ong và giá trị truyền đời, luật
bất thành văn của đoàn Phong Ngạn.
Chúng tôi đến ấp Vồ
Dơi, trụ sở của Ban Quản Lý Vườn Quốc Gia U Minh Hạ vào giữa trưa Tháng Tư nắng
cháy. Thời điểm này là chính vụ ăn ong mùa khô, sản lượng mật ong cao nhất,
phẩm chất tốt nhất so với hai mùa còn lại là mùa mưa và mùa lở. Đây cũng là
thời điểm rừng được bảo vệ nghiêm ngặt nhất để phòng chống cháy.
Chúng tôi đến nhà anh
Võ Văn Vinh, ba đời làm thợ rừng nay định canh khai thác 6 hécta rừng nhận
khoán ở vùng đệm, trồng tràm, gác kèo ong.
Với từng ấy kinh
nghiệm và năng khiếu bẩm sinh, anh Vinh được dân Phong Ngạn kiềng mặt gác kèo
mát tay, đạt hiệu suất cao nhất. Hóa ra cũng từng ấy vật dụng, cũng cùng trên
một cánh rừng nhưng không phải ai cũng đạt kết quả như nhau. Có người gác 10
kèo, ong đóng tổ đến chín, nhưng có người chỉ đạt 4-5, thậm chí thấp hơn. Không
phải do hên xui chim trời cá nước mà chủ yếu ở con mắt tinh tường, sự nhạy cảm
chọn trãng, chọn hướng đặt kèo.
Tổ ong trắng muốt.
(Hình: Thư Khôi)
Bí quyết chọn chỗ gác
kèo
Đường vô rừng lởm chởm
đất dớn (đất pha than bùn, xác là tràm đặc trưng của U Minh), khô cứng rất khó
đi. Anh kể nghề gác kèo ong cũng lãng mạn và nhàn nhã như nghệ sĩ. Theo luật tự
nhiên, đến mùa tràm trổ bông từ Tháng Chín tới Tháng Mười, đàn ong kéo về ăn
bông, tìm chỗ đóng tổ để sinh con đẻ cái. Nếu không có kèo, ong làm tổ có khi
quá cao, khi quá sâu trong rừng, việc ăn ong, lấy mật sẽ khó khăn. Gác kèo là tạo
ra cái khung sườn nhà phù hợp cho ong đóng ổ.
Bộ kèo ong rất đơn
giản chỉ gồm ba đoạn cây. Hai đoạn cây được cắm xuống mặt đất để làm trụ
(thường là cây tràm), đầu trên vạt nhọn. Cây cao khoảng trên dưới 2 mét được
gọi là cây nống, cây thấp (khoảng 1.7 mét) gọi là cây nạng. Cây thứ ba là cây
kèo (cây tràm, cây cau, cây bình bát) được khoét lỗ hoặc vạt ngàm để gác lên
trên đầu của cây nống và cây nạng theo một góc chênh chếch với mặt đất, theo
cách nói của anh Vinh là tỉ lệ 7/3. Nói đến đây, anh Vinh nở nụ cười bí hiểm:
“Cách thức đơn giản nhưng hay dở là ở chỗ chọn, phơi đẽo gọt kèo sao cho ong
ưng bụng đậu lại đóng ổ, tui làm được mà không kể được!”
Chia sẻ về bí quyết
chọn chỗ gác kèo, anh Vinh nói nhẹ khô. Ngoài bộ kèo thiệt ngon, ăn thua còn là
chọn chỗ gác kèo, hướng gác kèo. Điểm gác kèo tốt nhất là cây tràm thấp có
nhiều bông, có trảng trống, thuận đường cho ong bay, có lượng nắng mặt trời
chiếu xuống thân kèo phù hợp. Thường là hai phần nắng một phần mát vào mùa mưa
và một phần nắng hai phần mát vào mùa khô. Đầu kèo hướng về phía mặt trời mọc.
Chọn hướng gió thích hợp tùy theo mùa gió bấc, chướng, nồm để đặt hướng gác kèo
thuận cho đường bay của đàn ong… Người gác kèo phải hiểu tánh ý của đàn ong mà
chọn độ cao, hướng kèo rồi còn phải dọn cỏ, cắt cây che mát chỗ này, tạo khoảng
trống chỗ kia để đàn ong ưng ý đáp vô kèo đóng ổ.
Chừng nửa tháng sau
ngày gác kèo, đi một vòng dòm ngó đã biết được bao nhiêu kèo có ong đóng ổ và
thêm hai tuần nữa đã có thể ăn ong lấy mật.
Tổ ong trên thân kèo
của anh Võ Văn Vinh. (Hình: Thư Khôi)
Ăn ong! Một cuộc dạo
chơi
Hoa đẹp là hoa có gai,
ong cho mật ngọt nhưng ong cũng biết chiến đấu và có vũ khí hữu hiệu để tự vệ
là kim châm và nọc độc. Nhưng với thợ rừng như anh Vinh thì việc ăn ong đơn
giản lẹ làng như cuộc dạo chơi.
Mặc áo quần bảo hộ,
đội nón có lưới che mặt, mang theo con cúi bện bằng rễ gừa và lá tràm khô, một
con dao bén, một cái thùng xô chứa mật, chỉ sau vài phút tiếp cận, bằng ba lưỡi
dao, người thợ rừng đã thu hoạch xong một kèo ong và rời đi nơi khác.
Điều thú vị là tổ ong
được thiết kế rất bài bản theo quy tắc nghiêm ngặt. Phần cao ở đầu kèo chứa
toàn sáp và mật ong còn được gọi là khúc mức, kế đến là phần ong non và ong
già. Người ăn ong đến gần đốt con cúi và thổi khói vào tổ, ong bị say khói bay
đi. Khúc mức hiện ra một khối màu trắng ngà, mọng nước mật, lần ăn ong đầu tiên
chỉ cần cắt khúc mức đem về nhà vắt mật.
Khi cắt mật, đường cắt
thứ nhất cắt từ đầu kèo đi xuống từ trước ra sau để tách phần mật ra khỏi phần
tàng ong, đường thứ hai cắt khúc mật ra khỏi tổ ong, đường thứ ba cắt ngang
theo thân kèo nơi phần tổ ong gắn liền với kèo để cắt hẳn khúc mật ra khỏi tổ
ong.
Từ lần thứ hai trở đi,
phải làm thêm động tác tỉa gọn lại tổ ong cho gọn nhẹ để không bị gió thổi hư,
Cắt một phần tổ cũ, cột vô đoạn kèo trống từ khúc mức đã cắt để ong tái tạo ổ
nhanh hơn, lần thu hoạch kế tiếp ngắn hơn. Cứ như vậy, một lần đắt kèo ong có
thể thu hoạch từ bốn đến năm lần cho đến khi hết mùa, ong bay đi.
Đây chính là nghệ
thuật độc đáo của nghề gác kèo ong ở U Minh vừa khai thác mật, sáp ong vừa bảo
tồn sinh thái. Theo các nhà khoa học thì Cambodia và Indonesia cũng có nghề ăn
ong nhưng họ khai thác ổ ong chỉ một lần. Trong thập niên 1990, Tổ Chức Giáo
Dục, Khoa Học và Văn Hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã tổ chức hội nghị để những
người ăn ong các nước Đông Nam Á, chủ yếu là Cambodia và Indonesia học tập cách
gác kèo của U Minh.
Anh Võ Văn Vinh gác
kèo ong trong một khoảng rừng thưa. (Hình: Thư Khôi)
Giải mã đoàn Phong
Ngạn!
Nhưng nghề gác kèo ong
không chỉ điệu nghệ, sáng tạo về kỹ thuật mà còn có một tập tục, luật bất thành
văn của nghề ăn ong là luật đoàn Phong Ngạn. Người dân địa phương, những người
ăn ong tự hào nhắc luật lệ của đoàn nhưng nghĩa đen đoàn Phong Ngạn là gì thì
không ai biết.
Sách “Cà Mau Xưa và An
Xuyên Ngày Nay” có nhắc đến thuế Phong Ngạn thu của người ăn ong, cho thấy đây
không phải là từ dân gian cũng không phải là từ mới có thời Pháp thuộc mà là
chữ Hán Việt theo văn bản hành chính của triều đình nhà Nguyễn, phù hợp với các
loại thuế Hoàng Lạp (sáp vàng) hay thuế Điểu Đình (sân chim).
Một số phim truyền
hình giải thích là nghề ăn ong phải coi theo hướng gió nên gọi là Phong Ngạn
nghe trớt quớt. “Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam” của Vương Hồng Sển, “Từ Điển Hán
Việt” thì không thấy từ này.
Sách “Lịch Sử Khẩn
Hoang Miền Nam” có viết một khúc như vầy: “Thời Tự Đức (và có lẽ trước hơn),
quan lại địa phương chia rừng tràm ra từng ‘ngan’ tức là từng lô nhỏ, lấy những
con rạch thiên nhiên làm ranh giới. Nay hãy còn dùng làm địa danh. Ngan Trâu,
Ngan Dừa, Ngan Rít, Ngan Vọp. Nghề ăn ong gọi là ‘ăn ngan,’ lô rừng đem đấu
thầu gọi là sở phong ngạn (phong là ong, ngạn là bờ ranh).”
Nhà từ điển học Trần
Văn Chánh giải thích rằng chữ Ngạn có nhiều nghĩa trong đó có nghĩa là bờ nhưng
theo cú pháp Hán Việt thì Phong Ngạn không thể dịch là ong bờ mà phải dịch là
bờ ong và cả hai đều tối nghĩa.
May mắn là “Đại Nam
Quấc Âm Tự Vị” đã cắt nghĩa, phong 葑 là ong mật, ngạn 岸 (còn được phát âm ngàn) là rừng.
Điều đáng nói đoàn
Phong Ngạn là ý nghĩa, giá trị nhân văn của nó. Dân gian Nam Kỳ có câu “Nhất
phá sơn lâm, nhì đâm hà bá.” Cả nước có câu “Ăn của rừng rưng rưng nước mắt.”
Rừng U Minh không chỉ có cọp dữ, heo độc chiếc, trâu rừng mà trên không có ong
độc, đại bàng, mặt đất đủ loài rắn độc, dưới nước đầy cá sấu. Người đi khai phá
rừng cũng là lưu dân tứ chiến, có thể tranh giành cướp bóc thậm chí giết chóc
lẫn nhau.
Trong truyện “Hương
Rừng” đã thể hiện mỗi thợ rừng ngày xưa đều rèn cho mình những chiếc búa thật
bén, thật cứng làm vũ khí. Tai họa có thể đến từ mọi phía nên người ăn ong từ
xa xưa đã kết hợp với nhau theo từng nhóm gọi là đoàn.
Theo nhà thơ Nguyễn
Trọng Tín, sinh ra và gần cả đời gắn bó với Cà Mau, thì luật lệ của đoàn Phong
Ngạn rất chặt chẽ và cũng rất nhân văn.
Mỗi người trong đoàn
được giao một phần rừng để gác kèo và chịu trách nhiệm bảo vệ rừng. Có lẽ do
tính chất đối kháng dữ dội với thiên nhiên và con người thời ấy nên thành viên
phải là đàn ông, phải búi tóc.
Anh Võ Văn Vinh và gần
10 lít mật thu hoạch từ một kèo ong. (Hình: Thư Khôi)
Người trong đoàn không
được xâm phạm lãnh địa, không được ăn ong trên kèo thành viên khác. Thông
thường trên mỗi đầu kèo, thân kèo có khắc tên hoặc dấu hiệu của người chủ. Khi
một thành viên của đoàn mất mà không có con, cháu trai thừa kế thì số đầu kèo
và phần đất rừng khai thác của người ấy sẽ chia đều cho người khác.
Để bảo vệ an toàn cũng
như bảo đảm sự minh bạch, các thành viên Phong Ngạn không tự ý vô rừng mà phải
báo cho đoàn trước mỗi chuyến đi. Cũng không đi một mình mà phải đi ít nhất hai
người.
Khi va chạm với thú dữ
với các nhóm đối kháng khác phải hết lòng hết sức, liều chết bảo vệ nhau.
Mỗi thành viên gia
nhập đoàn phải qua nghi lễ trang nghiêm và cùng cắt máu ăn thề với lời thề độc
địa mà thông thường nội dung bảo chứng chính là sinh mạng của mình. Người vi
phạm sẽ bị xử theo luật lệ của đoàn mà mức phạt cao nhất là bị đuổi ra khỏi
đoàn.
Trong bối cảnh thời
ấy, làm một thợ rừng đơn lẻ, không có sự hỗ trợ của cộng đồng là mất mạng như
chơi. Vì vậy, những thành viên của của đoàn Phong Ngạn vẫn tự hào bảo nhau
người Phong Ngạn.
Mãi đến thập niên
1990, khi chưa có chủ trương quy hoạch vùng đệm và giao khoán cho dân, huyện
Trần Văn Thời, U Minh đã tái lập hợp tác xã, tập đoàn Phong Ngạn với các quy
tắc giản lược như khi giao dịch mua bán phải trung thực, không pha nước, không
nói sai chủng loại, không đong thiếu…
Còn đó đạo ăn ong
Hiện nay, rừng vùng
đệm được giao khoán, mỗi người tự gác kèo ong trên phần đất khoán của mình.
Tiền đề vật chất của đoàn Phong Ngạn không còn nữa nhưng ý thức đạo lý sống
đoàn kết tương trợ cùng bảo vệ rừng vẫn còn nguyên.
Anh Võ Văn Vinh tự hào
và tuân thủ theo đúng đạo ăn ong của dân Phong Ngạn. Hằng năm anh khai thác
hàng trăm lít mật từ 6 hécta rừng nhận khoán. Thứ mật thiên nhiên thuần khiết
được bán với giá ngay thật chỉ 400,000 đồng ($18) một lít. Thu nhập ấy đủ để anh
trang trải đời sống và nuôi con học đại học ngành nhà hàng khách sạn. Nguyện
vọng của cháu cũng gắn với rừng U Minh là sẽ giới thiệu với du khách những đặc
sản ẩm thực khẩn hoang từ nguyên liệu của rừng, sông biển U Minh theo phong
cách mới. Đoàn Phong Ngạn đã quá vãng nhưng đạo và người Phong Ngạn vẫn sinh
sôi. [qd]
No comments:
Post a Comment