Saturday, November 14, 2020

ÔNG LÃO ĐƯA ĐÒ BÊN SUÔI XUÂN KHÊ

Tôi đã gặp một chiều trên bến nước 
Ông lái đò ngồi đợi khách sang sông ...
 (Ông Lái Đò / Hiếu Nghĩa) 

THÔN XUÂN KHÊ và NẠI CỬU PHƯỜNG 


Cuối năm 1975  trại tù của chúng tôi đã 'an vị' cách Làng Nại Cửu Phường khoảng vài cây số. Người viết xin giải thích một ít về làng Nại Cửu Phường. Làng này có tên trong bản đồ Bộ TTM/VNCH. Từ Ái Tử ngó lên hướng núi vài cây số đường chim bay là thấy nó.

MỘT DỊP MAY CHO TÔI KHI ĐI LẤY DÂY KẼM GAI TẠI PHI TRƯỜNG ÁI TỬ: GIA ĐÌNH BIẾT ĐƯỢC TIN TÔI CÒN SỐNG

Đi lấy kẽm gai khoảng sau ngày thành lập Trại 4 khoảng gần cuối năm 1975, không ngờ là một dịp may cho bản thân tôi. Nhờ được cho  đi lấy kẽm gai ngoài phi trường Ái Tử cũ nên tôi có đi vô thăm chùa Ái Tử. Thời gian này người dân QT có khá nhiều đi đào bới các hố rác quân đội Mỹ lấp để lấy đồ. Nhờ vậy có ai đó thấy tôi. Nhờ vậy nên họ báo tin cho gia đình tôi ở Mỹ Tho rằng 'tôi còn sống'. Nhờ vậy  "leo lên bàn thờ' được vài tháng thì tôi được 'truống xuống' khỏi phải 'thờ sống' nữa. Tại sao tôi được "thờ sống"? Sau 30/4/1975 có người nghe đồn tôi đã 'tử trận' tại Mỹ Chánh cùng sự tan hàng của đơn vị 105, một tiểu đoàn ĐPQ thuộc TKQT nên cậu tôi vừa chạy đến Mỹ Tho báo tin ngay với gia đình tôi tại Mỹ Tho như thế. Thế là nhà tôi lập 'bàn thờ' cho tôi cho đến khi nhận được tin tôi đang 'cải tạo' tại Ái Tử như đã nói trên.

  Vài tháng sau gia đình mạ tôi dời về vùng Bình Tuy Động Đền làm rẫy sinh sống. Cả nhà  tôi nghe tin tôi còn sống và 'cải tạo'  tại Ái Tử quá mừng vui. Mạ tôi liền tức tốc vay tiền bạc từ  Bình Tuy đi ra thăm tôi lần 1 nhưng KHÔNG CÓ GIẤY ĐI LẠI nên phải về lại. Chuyến thứ HAI tiếp tục ra với đứa em út tên là Đinh Trọng Trị ra tận thôn Xuân Khê gần Nại Cửu Phường (Nại Cửu Phưòng khác với Thôn Nại Cửu gần làng Bích La) thăm tôi tại Trại 4 và được Trại cho ở lại một đêm trước khi vào lại phương nam. Tội nghiệp, nhà tôi không có chi, chỉ đem được đường và khoai luộc. Đứa em út lúc này lên 8 tuổi nó cầm theo một củ KHOAI LANG vỏ đỏ lớn nhất khoảng non 2 ký ra khoe  với anh. Đêm hôm đó Ma và em Trực của tôi ở ngoài nhà THĂM NUÔI công tác được vào lán thăm tất cả anh em trong lán 4 này. Đứa em và mạ tôi đưa củ KHOAI LANG TO TƯỚNG này ra khoe sự lao động 'đổi đời' ở quê mới Bình Tuy, ai cũng tủm tỉm cười. ..

                                                ***
XUÂN LAI THÔN THIẾU NGƯỜI THÔN NỮ YÊU KIỀU 

Trại 4 đóng sát bên cái thôn có cái tên rất đẹp là Xuân Khê. Tên thì đẹp nhưng cái thôn này không có người thôn nữ yêu kiều nào để chúng tôi đứng bên ni trại 'ngó' qua cả. Thôn Xuân Khê có ông lão đưa đò rất tốt bụng. 

Những ngày mưa lớn, nước suối dâng lên quá mau không cách gì qua được. Toán tù chúng tôi đứng bên thôn Xuân Khê ngó qua trại nhưng không biết làm sao để vượt dòng suối nước đỏ ngầu đang chảy cuồn cuộn? 



Con suối này- đúng hơn là con sông nhỏ  khi nhìn lại trên bản đồ BTTM VNCH  nằm giữa 2 con sông Vĩnh Phước và Sông Ái Tử . Nó không có tên ?
Sông Ái Tử, bắt nguồn từ Vịnh (đèo Ba Lòng ) chảy về hướng Nhan Biều qua Cầu Ái Tử . TỪ Cầu Ga ra hướng Đông Hà khoảng 2 cây số là Cầu Ái Tử. Cầu này nhỏ chỉ vài chục mét, qua khỏi cầu là căn cứ của Mỹ , phía trái là Chùa Sắc Tứ 
Từ Chùa Sắc Tứ đi ra một cây nữa là qua cái cầu có có con sông này, cầu không tên. Qua cái cầu này là đến cầu Lai Phước 



Ông lão đưa đò, cái tên tôi đặt do Ông có có con đò nhỏ bằng tôn, qua chiến tranh còn sót lại để sinh nhai trên con suối này. Lão giúp đưa chúng tôi qua sông nhưng mỗi lần chỉ vài người. Ôi ông lão  'cạy' giữa dòng sao thật tài tình. Dòng chảy xiết, mà cách chèo của lão sao 'ngon ơ'. Hồi hộp, lo lắng nhưng chỉ nhờ vào lòng tốt của ông lão độc nhất ở đây, không qua thì không được.

Ông hồi cư về đây từ lúc trại chúng tôi mới thành lập. Ông không bao giờ nói gì hay liên lạc gì với chúng tôi. Chúng tôi cũng hiểu chuyện, cái tội 'liên hệ với dân' chỉ làm phiền ông thôi. 

Cái thôn tên Xuân Khê, chỉ lác đác vài nóc nhà hồi cư. Bên ni trại tù số 4, chúng tôi không bao giờ nghe tiếng chó sủa râm ran hay tiếng gà gáy liên hồi mỗi bình minh lên? Quái lạ, nhưng rồi cũng phải hiểu ra. Dân về từ bàn tay không, mọi sự gầy dựng lên từ con "số KHÔNG to tướng" thì làm chi có chó để nuôi?

Chúng tôi âm thầm cám ơn ông lão đưa đò tốt bụng, giỏi tay chèo nhưng  trầm lặng. Ông như một người "câm" ông không nhìn ai nói với người tù nào dù nửa lời? Có nhiều đêm về tôi nằm suy nghĩ có thể ông giúp tù do tấm lòng ông là "dân miền nam" hay ông giúp theo sự yêu cầu của TRẠI cũng có?

Mưa qua đi, dòng suối trở lại hiền hoà như mọi ngày. Ông có hai cô con gái, nhưng tôi xin thưa trước là hai người con gái này không có 'nhan sắc' nên hẩm hiu ế chồng bởi vậy mới 'còn lại' trong cái thôn heo hút tận miền sơn khê này. 

Cô chị tên "Trút" cô em trên "Vi". Trút là con vật xấu xí trong rừng, mình nhím, đầu chuột. Trong rừng khi bị chúng ta gặp chúng hay co mình lại như trái banh, Những cái vi cứng cáp của nó là lớp bảo vệ chắc chắn cho nó, Dù ai có đá nó 'lông lốc' như trái banh cũng không hề hấn gì cả. Trút là loại thuốc nam tốt của rừng cho người nên hiện  bị người săn lùng cạn hết, chắc là khó kiếm?con "trút' tôi xin thưa lại với bạn đọc là người Quảng Trị nói vậy. Hiện nay trên báo chí người ta nói là "trúc' tôi không biết  nó là "trút' hay "trúc' chữ nào đúng?

Bạn tù đi rừng nhất là ra rừng Như Xuân THanh Hoá có kể về con kỳ đà và con trút trong rừng. Thưở này hai loại thịt rừng này nhiều lắm

Trở lại hai chị em Trút và Vi mang thân phận cô đơn bên dòng suối buồn hiu. Nhưng hai cô chắc "đỡ buồn" nhiều từ lúc có tù về đây. Chúng tôi ngày ngày vác cuốc lên đồi, hay những những toán đi rừng 'rầm rộ' qua thôn chắc hai cô cũng thấy. 


 TRÚT và VI KHÔNG PHẢI YÊU KIỀU NHƯ THIẾU NỮ NÀY TÔI CHO NÀNG MÔT KIẾP HẨM HIU 


Trút và Vi không phải là những 'đoá hoa sơn cước' nên thật tội cho mấy người tù độc thân chưa vợ, vì hình ảnh của hai nàng khó mà 'bắt mắt' để vào giấc mơ những người tù trẻ như chúng tôi về đêm?
Nhưng cái ơn của ông lão đưa đò chúng tôi chưa có cơ hội đáp đền, những ngày mưa lũ ông cho chúng tôi về lại trại khỏi ướt lạnh và đói khi phải đứng chịu trận chờ cơn nước xuống. Kỷ niệm khó quên đó là các trại tù Ái Tử chỉ có con suối lớn này chảy qua. Ăn uống tắm giặt nước non đều từ con suối này. Có những lúc tù tắm ở suối này, đang trở về thời 'nguyên thuỷ' thì hai chị em Trút và Vi tỉnh bơ xuống giặt ở đây chẳng biết đi đâu? Lý do là dân về đây cũng sống nhờ con suối này mà thôi.

Hết những cơn nước lũ Thôn Xuân Khê có thêm một mớ đất phù sa dọc mép bờ suối quanh co. Có một cặp vợ chồng nghe đâu là nghĩa quân về lại làng trồng được mấy liếp cây kiệu tươi tốt nhờ vào lớp đất phù sa đó . Mùa đông tháng giá  kiệu hợp với khí hậu này. Đứng bên này trại tù trông qua tôi thấy rất rõ màu xanh của mấy liếp kiệu mọc men theo dãi đất phù sa hiếm hoi của con suối lượn lờ quanh cái thôn nghèo yên tĩnh

Hè vê, nước suối cạn dần, chỉ có vấn đề thiếu nước chứ không còn lo chuyện lũ nữa. Trại 4 chúng tôi có dịp đền ơn ngoài dự liệu và quá bất ngờ đối với chúng tôi. 

Một hôm trại cho chúng tôi ra Ái Tử kiếm những tấm ri sắt về càng nhiều càng tốt. Ri nhôm đắt tiền thì mất dạng lâu rồi. Loại ri nhôm nghe đâu được 'đưa hết ra Bắc nay chỉ còn những tầm ri sắt thôi. Phi trường căn cứ Ái Tử những tấm ri sắt lót làm phi trường thế cho bê tông nên mới nhiều như thế. 

Căn cứ Ái tử quá nhiều tấm ri sắt này . Chúng tôi nhớ những ngày đi nạy ri từ ngoài kia . Những mãng ri khổng lồ dính liền nhau,  cong queo  ngất ngưỡng  do sức nổ của bom đạn ngày trước . Chỉ bằng sức người chúng tôi thi nhau tháo ra, hai người một tấm gánh về trại. Ngày lại ngày không biết bao nhiêu là số lượng? chúng tôi đã tháo về xây dựng trại . Lớp lót nằm, lớp làm vách, lớp cung cấp cho thợ rèn làm cuốc rựa và tiếp đến là làm cầu cho dân làng.

Chúng tôi được làm 2 cái cầu qua sông. Cái cầu bằng ri, chân cầu cùng bằng những tầm ri nối với nhau. Những hàng dây kẽm gai néo vào cầu chắc chắc cho dân đi qua. Chúng tôi những lần về Đoàn 74 (Trung Đoàn coi tù binh)  gánh đồ qua cầu, bước chân rầm rập nào khoai nào sắn nặng nề cầu vẫn chịu nỗi.

 Mùa mưa to người dân phải qua bằng thuyền nan và dây kéo qua sông. Dỉ nhiên mùa lũ thì mọi việc đều đứng yên. Nay đã có hai chiếc cầu ri ngừoi Thôn Xuân Khê đỡ khổ nhiều.

Non 40 năm qua kể từ cái ngày "Dâu Biển  mấy trại tù  hay mấy chiếc cầu ri ọp ẹp đó chắc chắn đã mất dấu và chẳng ai còn nhớ chúng nữa làm gì?

Riêng trong lòng tôi mỗi lần nhớ về một thôn nhỏ đìu hiu bên trại tù mang tên Ái Tử tôi không bao giờ quên hình ảnh 

Một ông già trầm lặng nhưng hảo tâm, kiên nhẫn giúp từng toán tù qua trại trong cơn nước lũ- một ông già có hai người con gái với hai cái tên đặc biệt là "Trút và Vi"./.


DHL 26/92016

edition MÙA COVID MỸ  15/11/2020 BY ĐHL

No comments:

Post a Comment