Saturday, March 6, 2021

HỒI KÝ RA TRẠI chương 3: NHỮNG ĐỒNG BẠC NGHĨA TÌNH

 


NHỮNG ĐỒNG BẠC NGHĨA TÌNH


Khi em nhỏ đạp xe ôm tới ngang cống Tây Lộc, tôi vội nhảy xuống do Cống hơi dốc. Tôi trả ngay cho em 3$ ‘bạc bắc’ tôi đã bỏ sẵn trong túi từ lâu. Nhìn theo dáng đạp xe vội vàng của em, lưng hơi cong, cái áo trắng nhàu nát, đẫm mổ hôi, tự nhiên tôi chạnh lòng thuơng cảm cho một thiếu niên người Huế, tuổi mới lớn lại gặp gian nan quá sớm. Tôi không biết em dùng 3 đồng đó làm gì. Kiếm khách thêm thì trời đã chiều. Ai đi đâu lúc này? thời buổi ngoài đường người đi bộ “đông hơn xe đạp”.

"Ba lon gạo là cùng!” Tôi nghĩ thầm.

bạc 10 đồng lớn nhất vào năm 1980 


Thời đó “củi quế gạo châu”- vào năm 1980, người lớn tuổi chắc không ai quên. Vào cuối năm 1975 thời gian tôi đang ở tù tại Trại Ái Tử, mang một đồng “bạc bác” lén về được Chợ Hôm -cái chợ chiều 'chồm hổm' nhà quê gần sông Thạch Hãn xã Triệu Long, tôi mua được đúng "một lon" khoai khô. Tiền thời này, cao nhất là tờ bạc mười đồng màu đỏ trong khi gạo là 'thuốc bổ -sâm nhung '?

Tôi thở dài quay bước tìm nhà mẹ đích tôi (1). Trước kia mẹ tôi được một căn trong Cư Xá Công Chức sát chợ Tây Lộc, nay đã bị Nhà Nước đuổi hết. Trong chợ ai mà không biết mẹ tôi - "Bà Cuơng nấu cháo gà ngon có tiếng"!

Con đường nhỏ về phía phi trường Tây Lộc cũ dẫn tôi vào dãy nhà lụp xụp. Vừa thấy tôi vào nhà mẹ tôi quá mừng và bất ngờ nhưng không quên buông những câu nguyền rũa ai đã giam tôi quá lâu:

-quân chi ác ôn ...con người ta mói ra trường mà giam chi giam ác tới 5-6 năm dữ rứa?!

Anh em bây giờ tản mác vào tận miền Nam, chỉ còn đứa em gái ở lại với mẹ tôi vừa làm HTX thêu ren 'bữa đực bữa cái' vùa phụ nấu nồi cháo gà cho mẹ tôi lúc này. Tôi chỉ ở với mẹ tôi được một, hai đêm. Sau khi ăn uống no nê mẹ tôi moi hầu bao được mấy chục bạc cho tôi ra QT tìm bạn bè. Nhìn những đồng bạc một đồng hai đồng cũ nát cuốn tròn mẹ tôi lần ra từ cái 'ruột tượng' tôi như muốn khóc. Một ngày mẹ tôi buôn gánh bán bưng chỉ được năm mười đồng, nhưng giờ tôi thật sự cần tiền?




Trước khi ra khỏi Bình Điền, 'Trại' cho tôi 32$ bạc. Trại tính theo giá nhà nước mỗi cây số '3,2 xu' [2] hay 0$032 nhân lên 1000 cây số ;than ôi, sự thật ngoài trại tù lại khác. Mọi thứ đều thiếu từ vải vóc, gạo dầu, cho đến cái vé xe chỉ ưu tiên cho cán bộ và “tiêu chuẩn hoá” nên tất cả đều chỉ có sẵn tại 'chợ đen" mà thôi. Còn hai muơi mấy đồng có gắng lắm đến Đà Nẵng là cùng. Đây là lý do tôi phải 'bấm bụng' lấy mấy chục bạc lao khó từ tay mẹ già, từ công lao em Hoà, phải thức sớm làm gà phụ nồi cháo cho mẹ, vừa thêu ren mỗi tháng ròng rã chỉ vài chục bạc.

VỀ LẠI QUẢNG TRỊ

Chiếc xe hàng thả tôi giữa đường quốc lộ gần Cầu Ga. Tôi theo con đường Hồ đắc Hanh cũ về lại xã Hải Trí. Nguyễn văn Bốn, thiếu uý BDQ 'học tập ' trong Đà Nẵng, ra tù lúc sau 15 tháng. Bạn tôi giờ chạy xe hàng với ba hắn, nhưng hắn gọi chú vì ba của Bốn tên là BA.

Thành Cổ tan tành nên nhà Bốn về 'định cư' gần ngã tư Quang Trung -Hồ đắc Hanh. Vùng này bà con còn gọi là Hải Trí. Gia đình bạn tôi chạy xe nên thuộc tầng lớp khá giả, dù xe đò bị vào 'hợp tác xã xe khách ' từ lâu.

Bốn ra tù sớm hơn tôi nên đã lấy vợ. Gia đình Mai, vợ Bốn trước đó cùng ở đường Duy Tân. Mẹ Mai là một đạo hữu rất siêng năng công quả nhất với chùa Tỉnh Hội năm xưa thời Thầy Thích Chánh Trực trụ trì. Tôi và Bốn là hai đứa bạn thân trong xóm Cửa Hậu (Cửa Hậu là một cửa của Thành Cổ: Tiền-Hậu-Tả-Hữu). Tội nghiệp, cái xóm đó giờ người ngoài kia vào ...bắt đầu xây dựng lấy hết đất. Bà con về lại như nhà Bốn biết ở với ai, nên đành bỏ cuộc. Hơn nữa, biết ai giúp đòi lại? Bà con thôn xóm ngày xưa sống dọc theo con đường Lê văn Duyệt, tản mác tứ phuơng. Kẻ ở trong nam, người tận khu thị tứ Đông Hà. Sau 1975, khu Thị Tứ Hải Lăng xem như 'xoá sổ', bà con xóm Cửa Hậu, đường Lê v Duyệt - Duy Tân thêm một lần nữa tản mạn vô nam hay 'hồi cư'  ra lại vùng này hay về làng.

Chuyện hồi cư lần một, nói cho dễ hiểu là hồi cư sau 1973. Năm này bà con ra ở quanh cồn cát Diên Sanh dối diện TKQT- tạm gọi là "Khu Thị Tứ". Đợt hồi cư thứ hai (1975) là cuộc “đổi đời” sâu đậm nhất: ngoài trừ người 'ra đi miên viễn'; còn lại thì vượt biên, vào nam, ra tận Đông Hà buôn bán làm ăn. Còn một số như gia đình của Bốn không về lại cái xóm Cửa Hậu thân yêu đó mà trú ngụ bên đường Hồ đắc Hanh hay Hải Trí.

Cho đến hôm nay tôi mới có dịp viết lên đôi dòng cảm tác về tình bằng hữu giữa hai đứa bạn thân nhau từ thuở mới 'sinh ra đời'.

Sau khi ăn uống no nê, gặp gỡ chú thím Ba- ba mẹ Bốn- hôm sau Bốn dắt tôi ra tận Đông Hà; Một lần nữa, hai chúng tôi xăm xoi trong khu thị tứ mới của Đông Hà sau "giải phóng' để tìm bà con xóm Cửa Hậu.

Nào hai gia đình dì của Bốn: dì Nậy, dì Giỏ đều là chủ xe đò nhưng nay đã vào hợp tác xã. Nhà Trần Tài (em út của cac anh Tước , Xê -Tước- Tiết,  và O Bê) và nhiều người nữa. Gặp tôi về ai cũng thuơng, ai cũng mừng. Bạn đọc tha lỗi cho cái tội nói về mình; xưa, trong xóm Cửa Hậu ai cũng thuơng tôi.

Đến đây, tôi nhớ hình ảnh anh Quang thời học sinh anh Q cũng rất thuơng tôi. Các dì các o ngang lứa mẹ tôi đều thuơng tôi. Ngày 17 tháng 3, 1975 khi rút quân về anh Q. là tiểu đoàn trưởng T Đ 122 TKQT, tôi. chỉ gặp anh lần đó là lần cuối. Thời Cửa Hậu lứa anh Quan anh Truơng Đá, anh Liệu, anh Tùng, anh Thuận (Cai Hy) đều thuơng tôi. Cái tên "Sù Sựa" là do anh Đá đặt cho tôi để “chọc” cho vui. Bốn cứ gọi tôi là "Sù Sựa", bạn ấy gọi riết đến quên cả tên "cúng cơm ' của tôi. Biệt danh này, do Bốn năng gọi mới lan nhanh khắp xóm.

Nhắc lại bà con tản mạn ra đây, Đông Hà, ai cũng bảo tôi ở lại nhưng lòng tôi như 'lửa đốt'. Tôi rất nôn về nam. Gia đình trong Bình Tuy đang ngóng tin tôi từng giờ. Tình cảm mẹ tôi tại Tây Lộc, từ bạn bè, bà con lối xóm giúp tôi gần
 ba trăm đồng bạc bắc cho tôi làm lộ phí vào nam. Số tiến này lúc này không phải là ít. Nó chứng minh điều tôi nói, bà con lối xóm, bạn bè thuơng tôi như tôi vừa viết chẳng hề sai.

Đón chiếc xe hàng vào Huế, giã từ Đông Hà mắt tôi còn ghi lại hình ảnh cái quán ăn lụp xụp mang tên Đường Ký, một thời là một tiệm ăn Tàu lớn bên Phố QT. Lọt đuợc vào lòng chiếc xe 'gió', lòng tôi chua xót cho thời thế 'vật đổi sao dời”.

(1): ba tôi hai vợ , mẹ ruột tôi là bà hai, còn ở trong nam
[2]: năm này còn ăn tiền xu còn gọi là hào: một đồng bạc ăn 10 ‘hào’


***
tiếp: GIÃ TỪ GA HUẾ 

No comments:

Post a Comment