Tuesday, December 22, 2020

CÁI HỘI TRƯỜNG CỦA TÙ BINH XÂY DỰNG VÀO NĂM 1975

SAU NHIỀU LẦN NGẮM NGHÍA, TÔI LẦN RA DẤU VẾT MỘT TẤM HÌNH VÀ HÌNH ẢNH CÁI HỘI TRƯỜNG ĐẦU TIÊN CHO TÙ CẢI TẠO TẠI ÁI TỬ


Trong những hình trên Internet về Chiến tranh VN và Tù Cải Tạo sau ngày 30/4/1975, tôi thật sự cám ơn và nhờ nó,  tôi phăng ra một tấm hình về TẬP TRUNG CẢI TẠO

Đó là một căn HỘI TRƯỜNG ĐẦU TIÊN MÀ TRẠI 1 TÙ BINH 'CẢI TẠO' TẠI VÙNG ÁI TỬ. Ngày tháng khó quên vừa sau khi miền nam 'gãy súng' một cách đau khổ, đoạn trường...

Tôi nhìn ra tấm hình này không phải là nhờ những khuôn mặt người mà cách thức xây dựng từ cột kèo và hai cái chái cùng sức chứa của cái HỘI TRƯỜNG LỢP BẰNG TRANH NGÀY ĐÓ...

***

30. 4. 1975: CHÚNG TÔI ĐANG BỊ GIAM TẠI THUNG LŨNG BA LÒNG THÌ NGHE TIN SÀI GÒN ĐẦU HÀNG

19/5/1975 cả trại tù binh Ba Lòng đều có lịnh di chuyển. Theo hướng Cùa tới Cam Lộ về Đông Hà nhưng không ra bắc mà đi bộ hướng về Lai Phước và Ái Tử

Chúng tôi là đoàn tù bị bắt khi Mỹ Chánh tan hàng tức là ngày 23/3/75 và lên Ba Lòng từ đầu tháng 4 . Còn khi Huế và Thuận An tan hàng sau này thì họ lên Khe Sanh

Đoàn tù Ba Lòng này của chúng tôi đi bộ tới Ái Tử thì theo đường Ái tử lên tới Thôn Hiệp Khế được Dựng Trại ở Thôn này đúng vào ngày 21/5/1975

Hiệp Khế có con sông nhỏ chảy qua, con sông này sẽ chẩy về các thôn XUân Khê , Ái TỬ VÀ ĐỔ RA VÙNG LAI PHƯỚC

NGày 21/5 chúng tôi bắt đầu dựng Trại Tù 74 ( Trung đoàn 74 của Sư Đoàn 337, theo lời cán bộ VC)

Những lán nằm dọc con suối này. Lán chúng tôi ở khoảng 20 người và có lán trưởng. Nó là căn nhà tranh và chúng tôi trét bằng đất dồi rơm. Hàng ngày chúng tôi đi rừng. Có lán trưởng cũng là tù. CHúng tôi còn lại là sĩ quan đủ các đơn vị, nhưng hạng binh sĩ từ đều đã được cho về sau một thời gian.

Công việc cấp tốc nhất là làm Hội Trường. Cái hội trường rất to mà tôi đã nhìn ra trong hình này gồm các thứ như sau:

-CỘT MỆ: TỨC LÀ CỘT LỚN NHẤT CÓ 12 NGƯỜI LÃNH NHIỆM VỤ. chúng tôi lên rừng cách khoảng mười mấy cây số lúc này tha hồ tìm cây. Cây cột mệ này cao hơn 10 mét và không phải vác về mà lại dùng nài và đòn để gánh. một Đòn vậy có 4 người hai bên

-CỘT NHÌ: KHOẢNG 6 NGƯỜI

-KÈO: 2 NGƯỜI

làm sao tôi quên được ngoài những cái cột khổng lồ và nặng nề như thế, còn bao nhiêu là bó rui mè rồi hàng ngàn cái tranh cùng mây và cây giang. Ôi những ngày lội suối băng rừng, đói và mệt. Đoạn đường gánh gỗ xa xôi mới về được trại. Những đồi tranh bạt ngàn hồi đó những trảng đồi trung du từ miền núi 

...

CÒN VÔ SỐ RUI MÈ VÀ TRANH THÌ KHÔNG NÓI CHỈ NÓI CÁC THỨ NẶNG NHẤT.

Tại sao cần hội trường gấp?

ĐỂ HỌC TẬP CHÍNH TRỊ : ĐÓ LÀ ƯU TIÊN 1 TRONG TRẠI TÙ LÚC NÀY l.úc Hà Nội vừa chiến thắng. Họ phải 'tẩy não' những sĩ quan và viên chức của VNCH còn lại

CẢI TẠO KHÔNG NHỮNG LÀ LAO ĐỘNG CHÂN TAY, CÒN PHẢI TẨY NÃO QUA CÁI TỪ LÀ 'HỌC TẬP' 


***

SAU KHI ĐOÀN 76 TỪ CỒN THIÊN VÀO NHẬP VÀO ĐOÀN 74 CHÚNG TÔI CHÍNH THỨC GỌI LÀ ĐOÀN CẢI TẠO 76 (theo cán bộ CS cho biết họ là Sư Đoàn 337 Quân Khu 4) 



Sau khi hoàn thành chúng tôi được HỌC 'CHÍNH TRỊ' TỨC LÀ LÚC NGỒI Ở DƯỚI NGHE CÁN BỘ THUYẾT GIẢNG VÀ HỨA HẸN NHƯ TRONG HÌNH

Rồi có những đợt học Chính Trị còn có "thu hoạch" bài vở của Học Viên Tù xem 'giác ngộ' ra sao?

Số Tù tại vùng Ái Tử càng lúc càng đông, sau khi các trại Tù đoàn 76 từ Cồn thiên vào nhập lại và Đoàn 74 đổi thành Đoàn 76 có Chỉ huy đóng tại trại 3 . Trại 3 có Trạm Xá hay viện Y Tế có các bác sĩ VNCH cũng là tù làm như bác sĩ Định và bs khác cùng một số người giúp việc lo y tế cho cả 5 trại .

số trại càng tăng thêm gồm năm trại và chúng tôi bị thanh lọc chia cấp bậc ra theo trại

*Trại 1: từ Đại Úy đến Trung Tá

*Trại 2, trại 3, trại 4 Thượng sĩ Nhất (hiếm) ...Chuẩn úy Thiếu Úy, trung úy trung đội trưởng nghĩa quân

*Trại 5: thành phần CHIÊU Hồi thời VNCH

Thời gian này đoàn tù 76 đi làm THủy Đập Thạch Hãn tại Trấm, Ruộng Muối Hà La Cửa Việt,  tháng 11 năm 1977 đi Nghệ An xây đập đào sông Ba Ra- Đô Lương, Đi THanh hóa phá và xây dựng lòng Hồ Sông Mực đi Vĩnh Linh xây làm trại bò vv ..

Cho đến năm 23/11/1978 thì dời toàn bộ vào Bình Điền Tây Nam Huế Sư đoàn 337 không coi tù nữa để lo chuyện đánh đấm và giao tù lại cho sự chỉ huy của Công AN CSVN

ĐHL 22/12/2020

HÌNH

-HỘI TRƯỜNG TRẠI 1 ÁI TỬ

-5 TRẠI TÙ ÁI TỬ GẦN NHAU ( hình ngũ giác có đánh số) THEO CON SUỐI CHẢY VỀ LAI PHƯỚC

 

Monday, December 14, 2020

ĐỂ MẠ GÁNH CHO ?




Kính nhớ công ơn và hương hồn Mạ Tôi

ĐHL




GIẤY PHÉP ĐI THĂM TÙ CỦA CA HÀM TÂN /   Tỉnh THUẬN HẢI


    Trại  4 Ái Tử  có Căn nhà THĂM NUÔI vách bằng phên đất, liền vách với cái TRẠM XÁ tức là nơi chữa bệnh cho tù. Hai cái nhà tranh này nằm ngoài Trại cách nhau cái hàng kẽm gai sơ sài thôi và chẳng kỹ càng gì cho lắm. Con đường mòn dẫn vào Nhà Cán Bộ phía bên này là Trại 4. Trại nằm sát con suối ngó qua bên kia là thôn Xuân Khê sau này có cái cầu bằng sắt ri bắc qua thôn đó.


                                          hình: Lá thư nhận trong tù 


   Mạ tôi và thằng em trai tên Trực, nó là đứa em út sinh năm 1967. Cuối năm 1975 mới tám tuổi đã ra đây thăm tôi được lần đầu tiên. Cả hai được ở lại cái nhà thân nhân này. Căn nhà nằm sát mé triền đất gần mấy trãng đồi đất pha sỏi cằn cồi. Phía sau lưng trãng đồi đó là Nại Cửu Phường một nhánh của Làng Nại Cửu lên đây khai phá không biết mấy đời rồi? Có dịp đi củi tôi mới biết có nhà Ô Ổn và một người dì tên HỒng còn ở đó. Có lần đi củi tôi tạt vào thăm nhà Ô Ổn. Ông Võ Ổn trước 1972 là thợ thổi kèn cho các đám tang. Tôi còn nhớ ngày ông gặp nạn là lúc ông đạp xe đạp đi kỵ  bên nhà Ngoại tôi về. Nhưng lần cuối cùng này ông gặp rủi. Chiếc xe đạp của ông  ngang Nhan Biều bị xe quân xa Mỹ đụng.  Tuy không chết nhưng tội cho Ông bị mất trí nhớ từ đó. Dì Hồng tôi, có thời qua làm cho mạ và dì tôi lúc đang bán hàng tại cái tiệm thuê lại của bà Lê thị Trọng sát Lido Ảnh Quán. Đó là thời gian sau 1968 và trước khi chạy loạn 1972. 


BẢN ĐỒ BỘ TỔNG THAM MƯU VNCH 

TRẠI 4 KHOẢNG TRONG VỊ TRÍ HÌNH LỤC GIÁC CỦA BẢN ĐỒ TRÊN. NẠI CỬU PHƯỜNG CŨNG KẾ GẦN  PHẠM VI HÌNH LỤC GIÁC ĐÓ


   Tôi từ trại 4 nhờ đi củi cho Trại nên có cơ hội ghé vào làng Nại Cửu Phường này.  Tôi gặp Dì Hồng vừa đi củi về, gánh củi sim những cành nhỏ leo teo, bó thật to gọi là củi chồm chồm nhưng nhẹ hều, cháy mau. Hai dì cháu nói chuyện một ít thôi, dỉ nhiên dì là du kích trong thôn và tôi là đứa tù binh thì làm gì nấn ná cho lâu?

 

ngoài tăng gia sản xuất trại 4 còn cắt tranh về bán cho ngoài và còn đi làm muối ở Cửa Việt khoảng năm 1976

   Biết mình là tù nên không thể cấn ná lâu, liên hệ đến bà con nên tôi vội vã chào Dì Hồng ra về. Về thì không phải là về hẳn. Tôi ra lại vạt đồi lấy triêng củi dấu trong bụi rồi gánh về Trại. Trên con đường mòn, ẩn mình sau mấy vạt tranh, tôi vừa gánh củi về nhưng đầu óc vẫn lởn vởn hình ảnh Ông Ổn ngồi im lìm trên chiếc giường tre, mù lòa lú lẫn. Rồi một bà dì này là du kích trong thôn...


*


   Miên man, tôi phải trở lại chuyện mạ và em trai út ra thăm tôi. Chuyến ra thăm đầu tiên này như đã kể trong những câu chuyện trước là nhờ đi lấy kẽm gai và ri sắt ngoài căn cứ Ái Tử trước chùa Sắc Tứ nên có người gặp bạn tù cùng lán (nhà tù ) là Lê Cảnh Thu người Bích La nói có tôi ở cùng trại và họ làm cách sao đó làm cho gia đình tôi trong Bình Tuy biết được. Theo lời em trai Đinh trọng Thịnh thì mạ tôi tức tốc ra QT nhưng không có giấy ĐI LẠI nên Trại 4 không cho gặp. Tội nghiệp chuyện đau lòng này tôi không hề biết? Mạ tôi về lại Bình Tuy tốn tiền tốn bạc lại vay mượn tiền đi ra chuyến này mới gặp tôi. Có thể thời gian này là cuối 1975 rồi.


   Trở lại chuyện Mạ và em tôi ra thăm tôi ngày đó. Hai người được  ở lại tại nhà Thăm Nuôi như đã tả trên. Mạ tôi và thằng Trực, em út, là hai người đi thăm tù ngày đó mà thôi. Hai mạ con do ban ngày thì không gặp con nên được  trại cho vô ngay tại lán gồm tất cả hai chục anh em của 4 tổ  tù trùng vào  giờ sinh hoạt ban đêm. 


 Tôi nhớ rõ là Nguyễn Danh Huấn (Gio Mỵ , Gio Linh) làm Lán trưởng. Trần đình Côn cũng người Gio Linh làm tổ trưởng. Non hai năm sau thì Côn và Huấn lần lượt ra trại trước tôi vì có thân nhân CM. Hai người này về địa chỉ Động Đền Hàm Tân kể cả Sơn Mỹ các em tôi đều biết. Một đêm mạ và em tôi trong giờ sinh hoạt nói trên vào thăm trong lán. Một đêm rất lạ do một không khí ấm cúng, mang hơi hám gia đình trong ánh đèn dầu của một lán tù trong giờ “phê bình kiểm điểm” công tác hàng đêm. Một người mẹ và một đứa con nít có mặt trong buổi sinh hoạt này. Ai nấy đều cảm động, thâ ái ra mặt. Từ người cán bộ coi tù, các tổ trưởng, lán trưởng và trại viên như chúng tôi đều cảm động vui vẻ. Thứ tình cảm gia đình đến rất đột ngột, không mong mà có như từ ‘trên trời’ hiện xuống giữa một trại tù.  



   Mạ và em tôi đem củ KHOAI to nhất  của xứ Động Đền (xã Tân Mỹ lúc đó) ra khoe. Có thể trong nhà muốn nói về đất đai và lao động trong Bình Tuy với anh em trong lán.  Tôi còn nhớ trong đêm đó ông Cán Bộ QUản Giáo người Nghệ An thì phải..ai cũng tủm tỉm cười nhất là đứa em tôi khoe củ Khoai To.  Sau đó mạ và em tôi phải ra lại ngoài Trại tức là ở lại Nhà thăm Nuôi (vãng lai) đó một đêm để ngày mai vô lại trong nam ...Quà ra thăm tôi gồm khoai luộc, đường cục, thịt kho bỏ trong gô do mạ tôi có ghé Tây Lộc ở lại và kho đồ ăn và cơm vắt cho tôi cùng vài thứ khác như thuốc rê này nọ...tất cả mọi thứ tôi đều quý như vàng!


    Sáng lại tôi đinh ninh là không còn gặp được mạ và em tôi để từ  giã. Nhưng một DỊP MAY lại tới:


   Trại 4 vào sáng đó bất ngờ  có công tác đem bán hơn một trăm gánh tranh cho Hợp Tác Xã Triệu Long phía ngoài đường 1 hướng Chùa Ái Tử ngó ra. Tức là gần Chợ Hôm và sông Thạch Hãn. Lán 2 của tôi tức lán hồi hôm mạ tôi được vào thăm cũng gánh tranh ra Triệu Long. Cả đoàn tranh lũ lượt gánh ra gặp lúc mạ và em tôi cũng trên đường ra ngoài đó. Quả là một dịp may. Thật vậy hai mẹ con không có gì mừng hơn. Mạ và em tôi bươn bả đi nhanh theo đoàn người. Cả trăm gánh tranh nhấp nhô lên xuống theo con đường đất đỏ của căn cứ Mỹ trước đây, lúp xúp chạy theo là mạ và em tôi cố gắng chạy theo ở giữa đoàn tù đang gánh tranh ra hướng Quốc Lộ.


   Tôi thì quen rồi gánh vác nhiều tháng rồi. Được dịp may gánh tranh ra hướng Quốc Lộ rồi có thời giờ đi với mạ và em mình một đoạn đường như vậy thì không gì mừng hơn. Thật ra mạ tôi một tay dắt con trai út, vừa đi nhanh cố bám theo tôi nhưng tôi lại thấy trên mặt mạ mình sao quá nhiều ĐAU XÓT. 


Tôi hiểu lắm, do từ ngày giã từ thời học sinh cho đến lúc vào lính ra trường ‘lon lá’ đàng hoàng oai phong, tề chỉnh; rồi đây là lần đầu tiên mạ tôi  thấy  đứa con trong bộ đồ tù rách rưới, gầy gò và gánh hai bó tranh to chạy lúp xúp như thế này đâu? Tôi lại nghĩ có thể mạ tôi đang lo cho tôi đang đau vai và mệt lắm chăng? Mạ tôi đâu có biết rằng tôi đã quen rồi với những ngày lao động. Cả cây gỗ nặng, lội trong rừng, ra đến rừng bụng đói còn vác được mười mấy cây số, về trại. Huống gì giờ đây là gánh tranh khô khốc, và được gần bên mẹ và em mình thì chẳng có gì là khổ cả.


   Đoàn tù gánh tranh đang qua chiếc cầu vượn bắc qua con suối, đoạn này đã đến thôn Ái Tử.


   Chợt mạ tôi lên tiếng:


            -ĐỂ MẠ  GÁNH  CHO  CON ?


           -Thôi mạ,  con không mệt, ăn thua chi mô, con quen rồi mạ đừng lo.


    Nét mặt mạ tôi lúc đó vẫn không hết âu lo, áy náy. Phần tôi lo gánh theo đoàn không có cơ hội dừng lại nói cho mạ tôi hiểu rằng vai tôi gánh gồng đả quen cho mạ tôi bớt buồn. Cán bộ dẫn tù cho mạ và em tôi đi bám theo đoàn tù như hôm đó dù sao họ quá dễ dàng lắm rồi.  Có thể  không ai nỡ lòng đành đoạn cản ngăn chuyện này. Mạ và em tôi cũng là hình ảnh gia đình của họ ngoài kia. Và đã là người chiến thắng rồi thì họ chẳng cần làm chuyện khó dễ làm chi?


   Mấy cây số ba mẹ con gần nhau, trên đoạn đường quê hương của một miền rú càn gần chùa Sắc Tử. Ngoài chùa Sắc Tử còn có mộ phần của những người thân, một ngôi chùa thân quen với bà ngoại tôi từng là bà Vãi và tôi với những kỷ niệm ra chùa thăm. Sau lưng tôi là Nại Cửu Phường cũng là bà con làng ngoại lên đó lập nghiệp. Những con đường quê hương đầy mùa sim chín đầu tiên của tháng tám năm 1975 là năm đầu tiên xây trại tù Ái Tử…từ lúc ở Ba Lòng chuyển tù về đây.


   Cho đến hôm đó một lần mạ tôi ra thăm đứa con trai. Cũng là lần đầu mạ tôi thấy tôi lam lũ, mồ hôi ướt đẫm bên gánh tranh vẫy nhịp chạy với cả đoàn tù đi bán tranh dài lê thê như thế. 


   Trong niềm sung sướng vô bờ khi biết tin con trai còn sống, còn ở tù ở đây và cũng kèm theo những quặn thắt đau trong lòng mạ tôi khi nhìn hình ảnh   thảm não của tôi hôm đó?


   Đoàn tranh đã ra đến Quốc Lộ 1. Mạ và em tôi phải đứng lại bên Lộ chờ xe hướng Đông Hà vô…

Tôi không được phép dừng lại tiễn mạ và em tôi vô nam, chẳng được thì giờ dừng lại nhắn nhe điều gì cả? Tôi phải chạy theo cho kịp đoàn người đang qua Lộ. Bên tê đường  vào sâu trong đó, Trại sẽ bán tranh cho Hợp Tác Xã Triệu Long. 


   Tôi cố gắng ngoái lại vài ba lần,  như cố ghi lấy hình ảnh mạ và em tôi đang chơ vơ đứng đợi xe bên Lộ Một...


 Hình bóng hai người thân yêu nhỏ dần và khuất hẳn sau những bụi dứa dại... Tôi tiếp tục bám theo đoàn tù mà lòng buồn da diết.  Vừa gánh tranh chạy, tôi vừa nguyện cầu mong sao cho mạ và em tôi mau đón được chuyến xe nào vô nam bình an vô sự ./.




Tuesday, December 1, 2020

NÓI VỀ ANH NHỮNG NGƯỜI CÒN LẠI




Anh sẽ trở về nghe gió đùn quanh mây trắng
Hoa nắng rộn ràng hôn tóc rũ bờ vai.
Còn lại những ai con đường mòn trên tay.
Ai về cho nhắn lời hỏi thăm lũ bạn bè.
...

Lời Ru Tiếng Nhớ

Tác giả: Anh Việt Thu


   LẠI MỘT THÁNG TƯ  đưa tôi trở lại với bao kỷ niệm và hình ảnh ngày xưa. Nhưng hôm nay tôi nhớ về các anh, những chiến sĩ bao năm ở lại sống với những hoàn cảnh éo le bên quê nhà. Tôi là một trong những người đã đi thật xa. Nhưng xứ người là một nơi có nhiều cơ hội để thăng tiến, để đổi đời, được bù đắp xứng đáng nhất là được bảo vệ chở che. 

TÔI LÀM SAO SO ĐƯỢC VỚI CÁC ANH, NHỮNG NGƯỜI Ở LẠI?

Tôi không có chút gì là can trường chịu đựng nào so với các anh. Chính các anh mới là những chiến sĩ già còn lại trên quê hương một ngày tháng Tư bao nỗi nhục nhằn. 

Hôm nay, non nửa thế kỷ qua các anh vẫn sống, vẫn chịu đựng lê lết quảng đời còn lại trong bao đắng cay, bao thiệt thòi không hề than oán.




Các anh, những người còn lại mới chính là những anh hùng. 

Cứ đến tháng Tư, dù tôi có khoác lại những chiến y ngày cũ, dù huy chương lấp lánh, lon lá um sùm hay ngay cả cờ xí rợp trời nhưng tôi vẫn là kẻ núp bóng trong sự chở che của xứ người. Tôi vẫn luôn sống trong sáo ngữ, khẩu hiệu, ý chí rụt rè. 

Thật hổ thẹn, khi So với các anh? Có vinh quang chăng khi so với các anh- những mảnh đời lưu lạc, dọc phố thị quê hương hơn bốn thập niên từ ngày gảy súng đó. Các anh thách đố với đói khổ, nhọc nhằn hay đắng cay nhục nhã. Bao mảnh chiến y bạc màu, vá víu qua ngày tháng che chở thân anh  để lết lê dọc đường gió bụi. Từng đêm dài, các anh đếm vinh quang qua đau khổ hao gầy!?



TÔI CHẲNG LÀ GÌ SO VỚI CÁC ANH, 

Những chiến sĩ già còn lại trên quê hương họ còn chút gì trãi lòng ra trước cuộc 'ra đi' cuối cùng này? Đó là bận lại bộ quân phục năm xưa một thời trai trẻ. 


một bộ rằn ri xuất hiện trong đám cưới tại Đức Linh Bình Thuận tháng 8/2018

Một màu xanh ô liu làm sống lại trong huyết quản héo úa cạn kiệt một niềm tin một sức sống một niềm tự hào đúng nghĩa và chân lý cuối cùng rằng:

CÁC ANH KHÔNG CÓ GÌ SAI VÀ ĐÃ CHỌN ĐÚNG CON ĐƯỜNG CÁC ANH ĐÃ CHỌN.

Các anh không còn gì để mất và không còn gì để sợ. Một màu áo trận lẻ loi trong một lễ hội trong những gì còn lại của quê hương sau bao năm tháng âm thầm; nhưng trong màu áo kia có một tâm hồn chẳng bao giờ 'cô đơn trong những tấm lòng những tâm tình hoà điệu'. Đó là một ý nghĩa ân tình một an ủi cuối cùng cho những đời lính từng một thời hi sinh và cống hiến




Đúng thế từ bên này bờ Thái Bình Dương tôi viết lên đây niềm cảm phục sự quả cảm của các anh với sự chân thành tự đáy lòng rằng các anh thật can đảm. Trong Hang Hùm Miệng Sói các anh vẫn nói lên tiếng nói gói ghém bao lâu tận đáy lòng: các anh đã hi sinh và đã làm đúng những gì trong trách nhiệm người trai thời loạn. 

Trong những tiệc hội linh đình, trên những con phố đông người tại các thành phố lớn, nay thấp thoáng các màu áo chiến binh xưa.

Các anh đã âm thầm đơm mầm hi vọng trong ánh mắt người dân, các anh đã mặc khải chính  nghĩa năm xưa trả lời cho bao lời dối trá thoá mạ trước đây.

Các anh mong được khoác lại màu áo năm nào để làm sống lại những niềm tin, cùng nhau khơi lại lòng tự hào ngày đó. Bên đường quê hương, hay từ phương trời xứ lạ, càng lúc càng  có nhiều tấm lòng ngưỡng mộ giúp sưởi ấm lại những mảnh đời băng giá sau nhiều thập niên trầm mặc trong giá băng và nỗi niềm đơn côi do nhân thế hững hờ... 

Bên này bờ đại dương, tôi thán phục và ngưỡng mộ các anh. Rất trân trọng những ý muốn sau cùng của những người chiến sĩ già nhưng can trường một thời son trẻ.

Các anh không có chút quyền lợi dù đã hi sinh. Các anh âm thầm chịu đựng buổi xế chiều rơi rớt lại của cuộc đời chiến sĩ. Chính các anh mới là những chàng trai thời loạn, non năm thập niên âm thầm chịu đựng khổ đau từ thể xác tới tinh thần. Đối với tôi, các anh thật sự là những anh hùng, dù sa cơ thất thế nhưng vẫn tràn trề tấm lòng vị tha, uy dũng./.



ĐHL 30/4/2021